Định hướng phát triển chính phủ số cho Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế
Triển khai chính phủ số là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với đặc trưng phát triển dựa trên nền tảng Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. Bối cảnh đó đòi hỏi sự thay đổi phương thức, cách thức lãnh đạo của bộ máy chính quyền, dẫn đến sự hình thành và phát triển chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số và chính phủ thông minh nhằm thích ứng với yêu cầu quản lý trong hiện tại và tương lai.
Phát triển chính phủ số sẽ là bước đi để đổi mới toàn bộ các quy trình dựa trên tư duy áp dụng công nghệ để tối ưu hóa hiệu quả của các dịch vụ và quản trị công. Ở các quốc gia có nền tảng chính phủ số phát triển, công nghệ và dữ liệu đã đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và hỗ trợ các cuộc khủng hoảng, ổn định xã hội và nền kinh tế.
Chuyển đổi số chính phủ thành công sẽ cho phép khu vực công hoạt động hiệu quả và cung cấp các dịch vụ công tiện lợi hơn. Do đó, việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong chính phủ hiện nay đang được rất nhiều quốc gia trên thế giới tiến hành, đem lại những thành công nhất định, như: Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ, Pháp, Mỹ…
Xây dựng và phát triển chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, vị trí về xây dựng và phát triển chính phủ số của Việt Nam so với các nước trên thế giới còn chậm được cải thiện; phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
Do đó để đạt được tầm nhìn "chuyển đổi số đến tận cốt lõi", đòi hỏi Việt Nam cần phải tham khảo, chọn lọc, học tập các mô hình xây dựng chính phủ số của các nước trên thế giới để khắc phục những trở ngại và thách thức trong việc xây dựng chính phủ số của Việt Nam hiện nay.
Một số cách tiếp cận về chính phủ số, chính phủ điện tử
Ở các nước phát triển, xây dựng chính phủ điện tử đã được thực hiện từ nhiều năm nay. Sự ra đời của chính phủ điện tử đã cung cấp cho chính phủ, doanh nghiệp và công dân của các quốc gia những thông tin và dịch vụ tự động hóa nhiều tiện ích, từ đó xây dựng một bộ máy chính phủ hoạt động có hiệu quả, có trách nhiệm và chất lượng phục vụ cao.
Tuy nhiên, với tác động của bối cảnh chuyển đổi số, đã dần làm thay đổi đời sống của con người, hoạt động của doanh nghiệp cũng như hoạt động điều hành của chính phủ, vì thế khái niệm chính phủ số cũng đã xuất hiện và ngày càng được đề cập nhiều hơn.
Năm 2014, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) lần đầu tiên đưa ra khuyến nghị về các chiến lược chính phủ số. Trong đó OECD phân biệt rõ giữa chính phủ điện tử và chính phủ số như sau:
Chính phủ điện tử (E-Government): là việc chính phủ sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông (ITC), đặc biệt là Internet như một công cụ để đạt được hiệu quả tốt hơn.
Chính phủ số (Digital Government): là việc sử dụng các công nghệ số như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa của chính phủ để tạo ra các giá trị công. Quá trình này dựa trên một hệ sinh thái chính phủ số bao gồm các tác nhân liên quan đến chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và người dân, thúc đẩy sự tạo ra và truy cập dữ liệu, dịch vụ và nội dung thông qua sự tương tác với chính phủ.
Trong Báo cáo sơ bộ về khảo sát chính phủ điện tử năm 2018 của Liên Hợp Quốc cũng có đề cập đến khái niệm của chính phủ điện tử và chính phủ số, tuy nhiên cả 2 khái niệm này hầu như vẫn đồng nhất và chưa có sự phân biệt rõ ràng.
Điểm mới trong Báo cáo này chính là khung phương pháp luận để đánh giá chính phủ điện tử của các nước, yêu cầu các nước phải có các ưu tiên về chương trình chuyển đổi số và các nguyên tắc về chính phủ số.
Khung phương pháp luận đó gắn liền với các mục tiêu trong Chương trình 2020 của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững. Đồng thời, Báo cáo cũng đưa ra khái niệm chính phủ số bao gồm các vấn đề và các lĩnh vực khác nhau liên quan đến việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp.
Năm 2020, lần đầu tiên Liên Hợp Quốc sử dụng cụm từ "Digital Government" (chính phủ số) làm chủ đề cho Báo cáo khảo sát chính phủ điện tử [5], thể hiện xu hướng phát triển chính phủ số trên toàn cầu.
Tuy nhiên, hai cụm từ chính phủ số và chính phủ điện tử vẫn được sử dụng song song trong nội dung của Báo cáo. chính phủ số không phải là một khái niệm thay thế chính phủ điện tử mà chính phủ số bao hàm chính phủ điện tử, nhưng thể hiện một sự thay đổi về mặt nhận thức, một mức độ trưởng thành cao hơn so với chính phủ điện tử.
Trong Báo cáo của Liên Hợp Quốc cũng phân tích những đặc điểm phát triển hướng tới Chính phủ số như: dữ liệu là trung tâm; quyết định dựa trên dữ liệu; mở dữ liệu; dữ liệu là nguồn lực chủ chốt, tài sản chiến lược.
Như vậy, chính phủ số về bản chất là chính phủ điện tử, nhưng có cách triển khai mới nhờ vào sự phát triển của công nghệ số. Vì vậy, khi nói phát triển chính phủ số chính là nói phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số đã bao hàm chính phủ điện tử.
Từ các cách tiếp cận trên có thể hiểu một cách đơn giản về khái niệm chính phủ số như sau: Chính phủ số là chính phủ có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội. Hay nói một cách khác, đây là quá trình chuyển đổi số của chính phủ.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chính phủ số ở Việt Nam
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, coi trọng thúc đẩy phát triển, chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số.
Ngày 14/10/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP về chính phủ điện tử. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu: "Đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt Nam về chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng".
Ngày 7/3/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025.
Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã xác định: phát triển chính phủ số là nhiệm vụ trọng tâm, là giải pháp đột phá, nhằm cung cấp dịch vụ số cho người dân, doanh nghiệp. Toàn bộ cơ quan nhà nước sẽ chuyển sang hoạt động trên môi trường số. Sử dụng dữ liệu công nghệ số để thiết kế lại các hoạt động vận hành của Chính phủ nhằm giúp việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Việt Nam hướng tới có chỉ số phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số ở mức độ cao trên thế giới, thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu vào năm 2025, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu vào năm 2030 theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 xác định mục tiêu của chính phủ số nhằm chuyển đổi cách thức phục vụ người dân, doanh nghiệp giảm chi phí, tăng năng suất của doanh nghiệp, tạo thuận lợi, mang lại sự hài lòng của người dân, để người dân, doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào hoạt động của cơ quan nhà nước để cùng tạo ra giá trị, lợi ích, sự hài lòng, niềm tin và đồng thuận xã hội; chuyển đổi cách thức tổ chức, vận hành, môi trường làm việc và công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình…
Thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách và định hướng của Đảng và Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số.
Nền hành chính hoạt động theo phương thức truyền thống dần chuyển sang nền hành chính hiện đại, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, thú đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Xếp hạng chính phủ điện tử Việt Nam theo đánh giá của Liên Hợp Quốc (EGDI) vào năm 2020, tăng 2 bậc, xếp hạng 86/193 quốc gia; xếp thứ 23/47 tại châu Á và xếp 6/11 quốc gia tại Đông Nam Á. Chỉ số tổng hợp của Việt Nam cao hơn chỉ số trung bình trên thế giới và khu vực, thuộc nhóm quốc gia xếp hạng cao.
Tỉ lệ dịch vụ công trục tuyến mức độ 3 trên cả nước năm 2020 đạt 30,86% vượt mục tiêu Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 7/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử năm 2019-2020 và định hướng đến năm 2025.
Tính đến ngày 20/8/2021, tỉ lệ dịch vụ công trục tuyến mức độ 3, 4 trên cả nước đạt 65,1%, trong đó tỉ lệ dịch vụ công trục tuyến mức độ 3 đạt 27,7%, tỉ lệ dịch vụ công trục tuyến mức độ 4, là 43,4%.
Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng và Nhà nước đã kết nối 100% đến các bộ ngành, tỉnh/thành trực thuộc trung ương, 100% quận huyện, thị xã, một số cơ sở dữ liệu tạo nền tảng đã được xây dựng như cơ sở dữ liệu về bảo hiểm, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu giáo dục, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được vận hành chính thức từ ngày 1/7/2021. [1]
Trục liên thông quốc gia văn bản quốc gia đã được xây dựng nhằm kết nối các hệ thống quản lý văn bản điều hành của các bộ, ngành và địa phương, hiện nay đã kết nối 94/94 bộ, ngành, địa phương và kết nối với hệ thống quản lý văn bản điều hành của Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, các tổ chức chính trị - xã hội… (từ khi khai trương ngày 12/3/2019 đến ngày 19/8/2021 đã có tổng số hơn 6,3 triệu văn bản điện tử được gửi và nhận giữa các cơ quan hành chính nhà nước trên trục liên thông văn bản quốc gia).
Tỉ lệ trao đổi văn bản dưới dạng điện tử trên toàn quốc năm 2020 đạt 90,8%, vượt mục tiêu Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 17/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ.
Các số liệu trên khẳng định sự nỗ lực của Việt Nam trong việc phát triển chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số, thể hiện sự quyết tâm từ mọi cấp, mọi ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Tuy nhiên, ngoài kết quả đạt được, việc xây dựng, phát triển chính phủ điện tử tử ở nước ta thời gian qua còn bộc lộ một số khó khăn, hạn chế nhất định như việc thu thập dữ liệu, mô hình, giải pháp triển khai chưa đồng bộ; người dân sử dụng dịch vụ còn hạn chế, hoạt động của các cơ quan nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên giấy tờ, việc số hóa để ra quyết định dựa trên dữ liệu còn rất hạn chế.
Một số luật, nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang, môi trường pháp lý cho xây dựng, phát triển và triển khai chính phủ điện tử chưa được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời như bảo vệ quyền riêng tư của con người, bảo vệ an ninh cá nhân, điều chỉnh lĩnh vực ứng dụng các công nghệ hiện.
Các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống nền tảng chính phủ điện tử chậm được triển khai; thiếu chiến lược tổng thể về phát triển chính phủ điện tử; thiếu bộ chỉ số, công cụ giám sát, đánh giá triển khai chính phủ điện tử; kinh phí đầu tư cho xây dựng, phát triển chính phủ điện tử chưa đáp ứng được nhu cầu; một bộ phận cán bộ, công chức, khả năng sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ của viên chức trong giải quyết công việc còn hạn chế...; vấn đề an ninh mạng chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều kẽ hở.
Kinh nghiệm xây dựng chính phủ số ở một số nước trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình tiếp cận để xây dựng nền tảng của chính phủ số. Mỗi mô hình xây dựng sẽ có những ưu nhược điểm riêng và cần phải được lựa chọn phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng quốc gia. Cụ thể có 4 mô hình tiêu biểu sau:
Mô hình xây dựng một nền tảng tập trung cho toàn bộ chính phủ: Mô hình này có thể triển khai khi chính phủ đã quy định rõ ràng một đầu mối chịu trách nhiệm toàn bộ quá trình chuyển đổi số ở cấp độ quốc gia.
Dạng nền tảng này cung cấp một điểm truy cập tập trung (một cửa) cho tất cả các thông tin và dịch vụ của chính phủ.
Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp đối với các quốc gia có quy mô dân số và địa lý nhỏ tương đương với một bang hoặc một thành phố lớn trên thế giới. Ưu điểm chính là có tốc độ triển khai nhanh, tính đồng bộ cao, do đó đòi hỏi phải có một bộ máy chuyên trách, đủ năng lực và đủ quyền lực làm thay đổi cơ chế vận hành của chính phủ.
Điển hình cho mô hình này là chính phủ Singapore với mục tiêu "chuyển đổi số đến tận cốt lõi, phụng sự bằng cả trái tim" [6]. Hành trình chuyển đổi số của chính phủ Singapore bắt đầu hơn 30 năm trước, với Chương trình tin học hóa quốc gia từ những năm 1980 nhằm xây dựng một xã hội kết nối toàn diện.
Để thực hiện mục tiêu đó, mọi cơ quan chính phủ Singapore phải thực hiện chuyển đổi số từ đầu đến cuối (end-to-end), từ xây dựng chính sách và lập kế hoạch, đến quản lý hoạt động và cung cấp dịch vụ, để thu được lợi ích đầy đủ của việc số hóa.
Hiện nay, thông qua cổng giao diện Công dân điện tử, người dân Singapore có thể truy cập hàng ngàn dịch vụ bao gồm từ y tế, giáo dục, giải trí đến việc làm và gia đình, trong đó hầu hết các dịch vụ điện tử được thực hiện giao dịch trực tuyến giữa người dân với chính phủ.
Cổng giao diện Công dân điện tử dược chia theo từng danh mục dựa trên nhu cầu thực tế cuộc sống của từng cá nhân, trong đó từng bộ và ủy ban luật pháp cung cấp dịch vụ diện tử thông qua cùng một cổng.
Qua sự thành công của Sigapore, bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam cần nhất quán khi thực hiện các bước số hóa dịch vụ, trong đó đặc biệt chú ý của người dân về việc đơn giản hóa ngôn ngữ và nâng cao số hóa khả năng sử dụng dịch vụ, xây dựng niềm tin vào khả năng cung cấp dịch vụ của chính phủ điện tử an toàn và bảo mật thông tin cũng được coi là yếu tố quan trọng để chuyển đổi số kỹ thuật thành công.
Mô hình xây dựng dựa trên nguyên lý ngang hàng: Nền tảng của chính phủ được xây dựng trên cơ sở tích hợp các dịch vụ được xây dựng hướng theo các nghiệp vụ chuyên ngành. Mô hình này đòi hỏi sự tăng cường chia sẻ dữ liệu giữa các nền tảng nghiệp vụ khác nhau trong chính phủ.
Mô hình này chỉ phù hợp với những quốc gia thiếu một nền tảng dùng chung cho dịch vụ công. Nó thường hướng tới việc tập trung vào cải thiện từng hệ thống nghiệp vụ dùng cho các cơ quan ngành dọc ở tất cả các cấp độ từ trung ương tới địa phương.
Điển hình là cho mô hình này là chính phủ Pháp. Chuyển đổi số quốc gia chính phủ Pháp chú trọng xây dựng Chương trình phát triển chính phủ điện tử từ cấp Trung ương đến địa phương (Chương trình DCANT 2018-2020) với mong muốn "cùng xây dựng dịch vụ số địa phương thông suốt và hiệu quả". Trong đó, người dân là đối tượng trung tâm phục vụ của Nhà nước và chính quyền địa phương trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
Chương trình DCANT có 4 trục ưu tiên gồm: (1) Nền tảng chia sẻ chung; (2) Quản trị hành chính công trên nền tảng chia sẻ; (3) Phương pháp tiếp cận dữ liệu tổng thể và chuyển dịch cấp độ số hóa; (4) Tất cả các địa phương đều phải tham gia vào Chương trình DCANT.
Nội dung xuyên suốt của chương trình này là giữa các cơ quan hành chính Nhà nước, Trung ương với địa phương luôn có sự trao đổi lẫn nhau những thông tin về hộ tịch, hộ gia đình, thành phần gia đình… thông qua công cụ số và lưu chuyển dữ liệu theo các bộ tiêu chuẩn, hướng dẫn, nguyên tắc chung. Đây cũng chính là nền tảng thực hiện bất kỳ dịch vụ công trực tuyến ở Pháp.
Bài học rút ra từ kinh nghiệm xây dựng chính phủ số của quốc gia Pháp chính là các cơ quan Trung ương và địa phương trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử từ Trung ương đến địa phương phải bảo đảm chất lượng và mức độ tiếp cận cho dịch vụ công, do đó phải có Bộ tiêu chí về luật, chất lượng của dịch vụ công trực tuyến… và luôn có sự chỉ đạo thống nhất và xoay quanh đối tượng sử dụng là người dân và doanh nghiệp.
Mô hình xây dựng dựa trên nền tảng hệ sinh thái: Ở mô hình này, chính phủ đóng vai trò chính là nhà kết nối trong một nền tảng mở và hướng tới kết quả. Chính phủ thực hiện hợp tác và cung cấp dịch vụ công cùng với các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức phi chính phủ. Quá trình xã hội hóa dịch vụ công làm thúc đẩy các quan hệ đối tác và khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo ra các giá trị mới.
Kiểu xây dựng nền tảng hệ sinh thái là cách tiếp cận phù hợp nhất để thực thi các chính sách có mối quan hệ phức tạp mà rất khó để quản lý bởi chỉ một nhà cung cấp dịch vụ. Ưu điểm của mô hình này chính là tạo cơ hội khuyến khích sự tham gia của tất cả các bên vào việc thiết kế, cung cấp các dịch vụ gia tăng.
Điển hình cho mô hình này là chính phủ Mexico. Mục tiêu của chính phủ Mexico nhằm xây dựng một mối quan hệ mới giữa xã hội và chính phủ, tập trung vào trải nhiệm của công dân trong việc sử dụng các dịch vụ công.
Đối với mục tiêu này, Chính phủ Mexico đã đặt ra giải pháp đó là xây dựng và phối hợp hành động nhằm đạt được một Chính phủ mở; xây dựng chính sách công nghệ thông tin và truyền thông bền vững cho chính quyền; thực hiện chính sách quản lý tài sản đất đai quốc gia; sử dụng dữ liệu để phát triển và cải thiện chính sách công; thiết lập chiến lược truyền thông kỹ thuật số và mạng xã hội cho chính phủ. [6]
Mô hình xây dựng dựa trên nền tảng dùng nguồn lực số đông: Mô hình này nhằm mở rộng để khai thác nguồn lực của số đông người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trong việc cùng giải quyết một vấn đề mới của xã hội. Các ý kiến, thông tin phản ánh của người dân và doanh nghiệp được thu thập thông qua mạng xã hội và được sử dụng như là một nguồn dữ liệu đầu vào quan trọng để cải thiện các hoạt động của chính phủ.
Điển hình cho mô hình là chính phủ Ấn Độ. Chiến lược chuyển đổi số chính phủ của Ấn Độ là một chương trình có sự tham gia của nhiều bộ, ngành kết hợp với những ý tưởng và suy nghĩ lớn thành một tầm nhìn toàn diện, duy nhất.
Chiến lược này được ban hành bởi Bộ Điện tử và Công nghệ thông tin Ấn Độ (DeitY), có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 đã xác định mục tiêu "trao quyền cho người dân bằng các công cụ kỹ thuật số và biến Ấn Độ thành một xã hội số" trong đó bảo đảm các dịch vụ của chính phủ luôn có sẵn cho công dân điện tử, tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ Internet tốc độ cao cho người dân và các dịch vụ có sẵn theo thời gian thực trên nền tảng trực tuyến và di động.
Mục tiêu chính của chiến lược chính phủ số của Ấn Độ bao gồm cơ sở hạ tầng, quản trị, dịch vụ theo yêu cầu và trao quyền kỹ thuật số cho người dân [6]. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trên con đường chuyển đổi số chính là các giải pháp phát triển công nghệ thông tin và sự kết hợp giữa các ban ngành và nâng cao quyền công dân bằng công cụ kỹ thuật số.
Có thể nói, mỗi quốc gia có những chiến lược khác nhau để đạt được đích đến thành công trên hành trình chuyển đổi số và tất cả đều là những kinh nghiệm quý để Việt Nam nghiên cứu và có những bước chuyển đổi số phù hợp cho riêng mình.
Một số định hướng phát triển chính phủ số ở Việt Nam
Từ việc phân tích và tổng hợp từ kinh nghiệm quốc tế về phát triển chính phủ số, trong khuôn khổ bài tham luận, tác giả gợi ý một số định hướng nhằm thúc đẩy, cải thiện chính sách xây dựng chính phủ số tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, xây dựng hành lang pháp lý khi triển khai chính phủ số ở tất cả các cấp. Đây là điều quan trọng và cấp thiết khi xây dựng chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số bởi nó sẽ giúp gia tăng tính trách nhiệm của người thực hiện, thúc đẩy quá trình thực hiện chính phủ số.
Bài học rút ra từ mô hình chính phủ số của Pháp cho thấy việc xây dựng đưa ra chế tài xử phạt trong thực thi và triển khai chính phủ số cũng sẽ góp phần thúc đẩy quá trình thực thi chính phủ số ở tất cả các cấp và ban ngành, giúp cải thiện sự chênh lệch giữa các bên liên quan và tránh để xảy ra vấn đề đứt đoạn mạch dữ liệu do quá trình triển khai không đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, tổ chức đào tạo và kiểm tra trình độ, kỹ năng tin học của cán bộ, công chức, viên chức, xây dựng khung khen thưởng và hình phạt đối với kết quả kiểm tra năng lực làm việc trên nền tảng số của các cán bộ.
Bài học kinh nghiệm từ thành công xây dựng chính phủ số của Singapore đã cho thấy nhờ có một lực lượng lao động thành thạo các kỹ năng số, đảm bảo công việc trên môi trường số và sử dụng tốt các công cụ số. Để làm điều này, Chính phủ Singapore đã liên tục đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng của nhân sự, thích ứng với những thách thức và yêu cầu mới. Do đó, đào tạo nhân lực có năng lực vận hành chính phủ số là việc bắt buộc phải thực hiện.
Thứ ba, nâng cao nhận thức, tuyên truyền về chính phủ số với người dân, doanh nghiệp, trong đó lấy việc phục vụ cho người dân làm trọng tâm. Cụ thể như trường hợp ở Mexico, người dân được tham gia trực tiếp trong quá trình xây dựng chính phủ số Điều này góp phần xây dựng một chính phủ số phù hợp với yêu cầu thực tế của người dân. Từ đó cũng thúc đẩy người dân, doanh nghiệp tham gia sử dụng các dịch vụ liên quan của chính phủ số.
Trong quá trình thực hiện chính phủ số, cần ưu tiên cho việc lấy người dùng làm trung tâm, từ đó ra phương hướng, các nhiệm vụ xây dựng từ cải cách hành chính đến chính phủ số. Điều này sẽ nâng cao chất lượng phục vụ, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình triển khai. Cổng dịch vụ công quốc gia khi đưa vào triển khai cũng cần đề cao tính thân thiện, tiện dụng và lựa chọn các dịch vụ công thiết yếu, phù hợp để ưu tiên.
Thứ tư, phân bổ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho các cơ quan nhà nước, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Việc ưu tiên phân bổ ngân sách cho việc triển khai chính phủ số đến các vùng, địa phương cần phải đảm bảo sự đồng đều nhằm thực hiện mục tiêu "không ai bị bỏ lại phía sau".
Tại các vùng hải đảo, vùng núi nên thường xuyên cử người có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng chính phủ số (từ các nơi có mô hình đã thực hiện thành công) đến làm việc trực tiếp, giảm bớt khó khăn và sai sót trong quá trình thực hiện tại các địa phương.
Thứ năm, hoạt động xây dựng chính phủ số phải được tiến hành theo phương pháp khoa học, chú trọng đến tính khả thi của việc triển khai. Các hệ thống thông tin chính phủ do Văn phòng Chính phủ triển khai đều phải xây dựng Đề án để xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chức năng, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, sau đó mới triển khai.
Các hệ thống lớn như Cổng dịch vụ công quốc gia trước khi vận hành chính thức đều phải qua 4 quá trình (chạy thử trên môi trường thử nghiệm, chạy thật trên môi trường thử nghiệm, chạy thử trên môi trường thật, chạy thật trên môi trường thật) đồng thời gắn chặt chẽ với việc đảm bảo an toàn, bảo mật và an ninh hệ thống.
Triển khai chính phủ số là xu hướng tất yếu
Với thành quả của các nước trên thế giới, có thể nói, triển khai chính phủ số là xu hướng tất yếu, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ, đẩy lùi nạn tham nhũng, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động và là con đường để tạo lập phồn vinh cho dân tộc.
Để có bước đột phá mạnh mẽ, Việt Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của thế giới và xây dựng các bước triển khai cụ thể, trực diện với hiệu quả cao nhất. Trong đó, cần chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng cao về trình độ công nghệ và ngoại ngữ, thực hiện vận động người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến đặc biệt nhanh chóng ban hành các văn bản pháp lý để việc thực hiện chính phủ số đảm bảo hiệu quả, sẵn sàng thích ứng trong điều kiện chuyển đổi số hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2021), Báo cáo tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030.
2. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo số 786/BC-VPCP ngày 25/01/2017 về tình hình thực hiện Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về chính phủ điện tử năm 2016.
3. Văn bản pháp luật: Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020; Quyết định số 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/6/2021 Phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-ST, H.2021.
5. Báo cáo khảo sát chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc (2020).
6. Bộ Thông tin truyền thống, Trần Thanh Hà (2021), Phát triển chính phủ số tại Singapore "Chuyển đổi số đến tận cốt lõi, phụng sự bằng cả trái tim".