Định hướng phát triển TPHCM nhìn từ cơ cấu kinh tế

Đại hội lần thứ I của Đảng bộ TPHCM đã đưa ra 'Tầm nhìn đến 100 năm thành lập nước (2045) nằm trong nhóm 100 thành phố tốt nhất thế giới, xứng tầm siêu đô thị quốc tế của Đông Nam Á, là trung tâm kinh tế, tài chính, du lịch, dịch vụ, giáo dục, y tế của châu Á, điểm đến hấp dẫn toàn cầu, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đặc sắc, bền vững, chất lượng sống cao, hội nhập quốc tế sâu rộng'.

Để hiện thực hóa tầm nhìn này, thành phố cần có những bước đi mang tính chiến lược và thực tế. Phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 2000 đến nay và bức tranh hiện tại cho thấy hiện trạng và những việc TPHCM cần phải làm.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TPHCM

Việc sáp nhập ba địa phương đã tạo ra một nền kinh tế có quy mô gần một phần tư GDP của cả nước với các thế mạnh về dịch vụ của TPHCM (cũ), công nghiệp chế biến, chế tạo của Bình Dương (cũ), và công nghiệp về năng lượng và khoáng sản cùng với cảng biển của Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ). Đây là nền tảng cho sự phát triển của TPHCM.

Do dầu khí (chiếm gần 10% GRDP nhưng chỉ giải quyết việc làm cho chưa đến 0,3% số lao động) là ngành đặc thù và khá tách biệt với phần còn lại của nền kinh tế, nên phân tích của chúng tôi không bao gồm ngành này. Như vậy, tổng GRDP năm 2024 theo Báo cáo Chính trị trình Đại hội lần thứ I của Đảng bộ thành phố là 2,568 triệu tỉ đồng, xấp xỉ 100 tỉ đô la Mỹ.

Từ năm 2000 đến nay, cơ cấu kinh tế của TPHCM đã chuyển dịch rõ nét. Công nghiệp và dịch vụ đã hoán đổi vị trí cho nhau, và vai trò của nông nghiệp là không đáng kể. Tỷ phần dịch vụ trong GRDP đã tăng từ hơn một phần ba GRDP vào năm 2000, lên gần hai phần ba vào năm 2024; ngược lại công nghiệp đã giảm từ gần hai phần ba GRDP vào năm 2000 xuống còn hơn một phần ba vào năm 2024; tỷ phần nông nghiệp giảm từ 2,9% xuống còn 2,3% (hình 1).

Về việc làm, với gần 7,3 triệu người làm việc vào năm 2024, dịch vụ chiếm 54,1%, công nghiệp chiếm 42,2%, nông nghiệp chiếm 3,7%.

Năng suất bình quân một lao động (GRDP/lao động) là 354 triệu đồng. Trong đó, năng suất của dịch vụ là 396 triệu đồng, công nghiệp 311 triệu đồng và nông nghiệp 219 triệu đồng. Như vậy, không chỉ chiếm tỷ phần GRDP và việc làm cao nhất mà năng suất bình quân của lao động trong ngành dịch vụ cũng cao hơn hẳn hai khu vực còn lại. Với đặc điểm của TPHCM hiện nay, xu hướng này sẽ tiếp tục.

Các ngành dịch vụ

Sự mở rộng của khu vực dịch vụ là đặc điểm nổi bật nhất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TPHCM. Phân tích cụ thể các ngành sẽ cho thấy bức tranh về những ngành dịch vụ mà thành phố chọn làm mũi nhọn như nêu ở phần giới thiệu và bức tranh chung.

Hình 2 trình bày giá trị gia tăng và thu nhập bình quân trên một lao động trong các ngành. Có sự chênh lệch rất lớn giữa các ngành. Ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm dẫn đầu với GRDP/lao động gần 1,9 tỉ đồng, gấp hơn 5 lần so với mức trung bình toàn thành phố. Tiếp đến là thông tin truyền thông gấp hơn 3 lần; chuyên môn và khoa học công nghệ hơn 2,5 lần; vận tải, bất động sản, y tế, hành chính và giáo dục cao hơn lần lượt là khoảng 1,6; 1,5; 1,4; 1,3; 1,2 lần. Nghệ thuật xếp cuối cùng trong nhóm năng suất lao động cao với 364 triệu đồng/lao động, cao hơn mức bình quân một chút.

Ở phía ngược lại, bán buôn, bán lẻ; du lịch và dịch vụ khác đang là các ngành có GRDP/lao động thấp. Cụ thể, bán buôn, bán lẻ 293 triệu đồng; dịch vụ khác 74 triệu đồng; du lịch 71 triệu đồng.

Cho dù đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế tổng thể, nhưng công nghiệp chủ yếu là gia công với giá trị gia tăng thấp và dịch vụ chủ yếu là quy mô nhỏ gắn với nhà ống, xe máy và kinh tế vỉa hè.

Các ngành dịch vụ tại TPHCM thể hiện sự chênh lệch rõ rệt giữa số lao động và hiệu quả kinh tế. Tài chính, ngân hàng chỉ sử dụng khoảng 1,4% tổng số lao động đang làm việc của toàn thành phố nhưng giá trị gia tăng tạo ra lại cao nhất. Ngược lại, ngành sử dụng nhiều lao động nhất trong khu vực dịch vụ là bán buôn, bán lẻ, tập trung gần một phần năm lượng lao động nhưng hiệu quả vẫn thấp hơn so với mặt bằng chung. Cho dù được đặt ra mục tiêu là trung tâm du lịch và tạo ra khoảng 9% số việc làm (xếp sau công nghiệp chế biến, chế tạo, và bán buôn, bán lẻ) nhưng giá trị gia tăng của du lịch chỉ bằng khoảng một phần năm bình quân toàn thành phố.

Thu nhập/lao động trong các doanh nghiệp ở các ngành dịch vụ tuy không tạo ra khoảng cách lớn như GRDP/lao động, nhưng sự phân hóa cũng khá rõ. Cao nhất là tài chính, ngân hàng với mức 324 triệu đồng; tiếp theo là thông tin truyền thông với 295 triệu đồng. Tiếp theo nữa lần lượt là khoa học công nghệ 235 triệu đồng, bất động sản 192 triệu đồng, y tế 190 triệu đồng, giáo dục 184 triệu đồng, vận tải kho bãi 178 triệu đồng, và nghệ thuật 162 triệu đồng. Ngược lại, các ngành như bán buôn, bán lẻ; du lịch; hành chính; và nhóm dịch vụ khác có mức thu nhập khá thấp.

Các ngành công nghiệp

Có sự chênh lệch rất lớn về năng suất lao động và quy mô giữa các ngành công nghiệp (hình 3). Không tính ngoại lệ ngành dầu khí như đã nêu ở trên, dẫn đầu khu vực công nghiệp là ngành năng lượng, với GRDP bình quân khoảng 2,5 tỉ đồng/lao động, gấp 7 lần so với bình quân của thành phố. Kết quả này chủ yếu nhờ hệ thống điện khí và năng lượng tái tạo tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy nhiên, ngành này chỉ tạo ra khoảng 22.000 việc làm hay 0,3% tổng số việc làm toàn thành phố. Các ngành liên quan đến nguồn nước và môi trường xếp ở vị trí thứ hai, với năng suất khoảng 658 triệu đồng/lao động, và tạo ra khoảng 30.000 việc làm.

Kinh nghiệm và xu hướng của các nước đi trước cho thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TPHCM trong tương lai gắn bó mật thiết với quá trình phát triển đô thị và tái cấu trúc lại không gian. Một nền kinh tế dịch vụ với giá trị gia tăng cao sẽ gắn với đô thị phát triển theo chiều thẳng đứng (mô hình TOD), như Seoul, Singapore và Tokyo là những điển hình.

Bao gồm tất cả các ngành thì thu nhập bình quân ở mức 289 triệu đồng/người thuộc nhóm cao.

Công nghiệp chế biến, chế tạo vốn được xem là nền tảng của công nghiệp truyền thống lại chỉ đạt 306 triệu đồng GRDP/lao động, thấp hơn đáng kể năng suất bình quân toàn thành phố. Hơn thế, thu nhập bình quân của người lao động chỉ khoảng 146 triệu đồng, khiêm tốn nhất trong nhóm công nghiệp và thấp hơn thu nhập của nhóm bán buôn, bán lẻ của dịch vụ. Dù đây là ngành sử dụng hơn 35% lao động, nhưng năng suất lao động thấp khiến giá trị gia tăng toàn thành phố bị kéo xuống. Điều này phản ánh rõ ràng vấn đề rằng TPHCM đang dựa vào một khu vực công nghiệp thâm dụng lao động, nhưng giá trị gia tăng thấp.

Đánh giá chung

Ba ngành gồm công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn và bán lẻ, và du lịch chiếm đến 61,1% tổng số lao động của TPHCM, nhưng năng suất lao động và thu nhập khá khiêm tốn. Trái lại, các ngành có năng suất lao động cao và thành phố đặt làm trọng tâm gồm: tài chính, giáo dục, y tế và khoa học công nghệ lại chỉ có quy mô nhỏ. Kết quả này phản ánh thực chất nền kinh tế và cấu trúc đô thị của TPHCM nói riêng và Việt Nam nói chung. Cho dù đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế tổng thể, nhưng công nghiệp chủ yếu là gia công với giá trị gia tăng thấp và dịch vụ chủ yếu là quy mô nhỏ gắn với nhà ống, xe máy và kinh tế vỉa hè.

Kinh nghiệm và xu hướng của các nước đi trước cho thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TPHCM trong tương lai gắn bó mật thiết với quá trình phát triển đô thị và tái cấu trúc lại không gian. Một nền kinh tế dịch vụ với giá trị gia tăng cao sẽ gắn với đô thị phát triển theo chiều thẳng đứng (mô hình TOD), như Seoul, Singapore và Tokyo là những điển hình. Dịch vụ (bao gồm cả các trung tâm mua sắm) được tập trung vào những cao ốc hoặc khu phức hợp, số đông người dân sống ở các căn hộ chung cư cao tầng và đi lại bằng phương tiện công cộng. Hạt nhân của nền kinh tế này là lực lượng lao động có kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo.

Như vậy, bài toán tổng thể mà TPHCM cần giải là cấu trúc nền kinh tế gắn với cấu trúc và hình thái của đô thị. Điều này có nghĩa là thành phố cần phải làm cho bằng được các hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là hệ thống giao thông công cộng theo mô thức TOD và cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo bằng việc nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục và khả năng nghiên cứu.

Huỳnh Thế Du - Huỳnh Tuấn Kiệt

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/dinh-huong-phat-trien-tphcm-nhin-tu-co-cau-kinh-te/