Đình So, danh lam đệ nhất xứ Đoài

Được khởi dựng vào nửa cuối thế kỷ 17. Đến nay di tích Đình So (huyện Quốc Oai, Hà Nội) vẫn giữ được những nét nguyên sơ cổ kính và là địa chỉ văn hóa quen thuộc của nhân dân trong vùng nói riêng và của du khách thập phương nói chung.

Theo “Sơn Tây tỉnh địa chí” của tác giả Phạm Xuân Độ: “Đình Sơn Lộ làm vào đời Hậu Lê, năm Dương Đức thứ III (1667), đình xây lối cổ, dài 90 thước, rộng 10 thước, theo hình chữ công, xung quanh có bao lan gỗ và sân lát gạch. Hậu cung có nghi môn che kín. Hai bên đình là hai nhà giải vũ. Đằng trước có chiếc cổng ba gian, làm theo lối tam quan các chùa và trông ra một hồ bán nguyệt, rộng ngót 7 mẫu, ở giữa nổi lên ba gò đất hình tròn. Lươn quanh mé hồ, là đường đê, đi xe hơi được”

Theo “Sơn Tây tỉnh địa chí” của tác giả Phạm Xuân Độ: “Đình Sơn Lộ làm vào đời Hậu Lê, năm Dương Đức thứ III (1667), đình xây lối cổ, dài 90 thước, rộng 10 thước, theo hình chữ công, xung quanh có bao lan gỗ và sân lát gạch. Hậu cung có nghi môn che kín. Hai bên đình là hai nhà giải vũ. Đằng trước có chiếc cổng ba gian, làm theo lối tam quan các chùa và trông ra một hồ bán nguyệt, rộng ngót 7 mẫu, ở giữa nổi lên ba gò đất hình tròn. Lươn quanh mé hồ, là đường đê, đi xe hơi được”

Đình So thờ ba anh em họ Cao đã có công phù giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và trở thành những vị thần linh thiêng của làng. Nhân dân làng So xưa kia và ngày nay thờ các thần để tưởng nhớ công lao với dân với nước và cầu mong các thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt

Đình So thờ ba anh em họ Cao đã có công phù giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và trở thành những vị thần linh thiêng của làng. Nhân dân làng So xưa kia và ngày nay thờ các thần để tưởng nhớ công lao với dân với nước và cầu mong các thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt

Đình So là một kiến trúc nổi tiếng và khá quy mô của vùng Phủ Quốc xưa, nổi danh với câu ca “ Đẹp đình So, to đình Cấn”. Ban đầu, đình được xây dựng ở xóm Đông, sau mới chuyển ra địa điểm hiện nay, đình đã qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất vào các năm 1924, 1928 và 1952

Đình So là một kiến trúc nổi tiếng và khá quy mô của vùng Phủ Quốc xưa, nổi danh với câu ca “ Đẹp đình So, to đình Cấn”. Ban đầu, đình được xây dựng ở xóm Đông, sau mới chuyển ra địa điểm hiện nay, đình đã qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất vào các năm 1924, 1928 và 1952

Theo hồ sơ di sản của Cục Di sản Văn hóa, Bia “Đại đình bi ký” dựng năm Cảnh Hưng 43 (1782) tại đình ghi chép về việc dựng đình như sau: “Nay phụng sự việc xây cất ngôi đình này. Nhằm ngày mười ba tháng sau, giờ tốt tháng Giáp Thân năm Tân Sửu (1781) phạt mộc. Theo đó ngày tới 20/8 khởi công. Ngày mồng Bảy tháng Giêng năm Nhâm Dần đặt cột đình. Tháng Ba trong năm công việc hoàn tất. Đến tháng Năm hoàn thành ngôi đình”.

Theo hồ sơ di sản của Cục Di sản Văn hóa, Bia “Đại đình bi ký” dựng năm Cảnh Hưng 43 (1782) tại đình ghi chép về việc dựng đình như sau: “Nay phụng sự việc xây cất ngôi đình này. Nhằm ngày mười ba tháng sau, giờ tốt tháng Giáp Thân năm Tân Sửu (1781) phạt mộc. Theo đó ngày tới 20/8 khởi công. Ngày mồng Bảy tháng Giêng năm Nhâm Dần đặt cột đình. Tháng Ba trong năm công việc hoàn tất. Đến tháng Năm hoàn thành ngôi đình”.

Đình bao gồm các hạng mục: Đại bái, Hậu cung, hai dãy Tả - Hữu vu, Nghi môn, hồ nước lớn hình bán nguyệt. Khu đình chính được đặt ở vị trí trung tâm. Đại bái gồm 7 gian 2 dĩ, chiều rộng 14m, chiều dài 34m; xung quanh là hệ thống cửa bức bàn, sàn gỗ chạy dọc hai bên

Đình bao gồm các hạng mục: Đại bái, Hậu cung, hai dãy Tả - Hữu vu, Nghi môn, hồ nước lớn hình bán nguyệt. Khu đình chính được đặt ở vị trí trung tâm. Đại bái gồm 7 gian 2 dĩ, chiều rộng 14m, chiều dài 34m; xung quanh là hệ thống cửa bức bàn, sàn gỗ chạy dọc hai bên

Tòa Đại bái có tổng diện tích khoảng 300m2, toàn bộ xung quanh được bao kín bởi các hàng cửa bức bàn. Các cửa này thường ngày chỉ mở một số cửa để tiện cho việc ra vào của dân làng và khách thập phương đến lễ bái và thăm di tích, vì cánh cửa chính của tòa Đại bái thì ngày thường được khép kín, chỉ được mở trong những ngày có việc lớn của làng.

Tòa Đại bái có tổng diện tích khoảng 300m2, toàn bộ xung quanh được bao kín bởi các hàng cửa bức bàn. Các cửa này thường ngày chỉ mở một số cửa để tiện cho việc ra vào của dân làng và khách thập phương đến lễ bái và thăm di tích, vì cánh cửa chính của tòa Đại bái thì ngày thường được khép kín, chỉ được mở trong những ngày có việc lớn của làng.

Đình So hiện lưu giữ được hệ thống tư liệu thành văn gồm: bia đá “Đại đình bi kí” có niên đại vào năm Dương Đức năm thứ 3 (1673), bia đá có niên đại vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1783), tảng đá kê chân cột hình hoa sen, rồng đá, nhang án gỗ chạm khắc khá tỉ mỉ mang phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII. Hiện vật giấy gồm cuốn thần tích, hương ước và 42 Đạo sắc, sớm nhất có niên đại là năm Hoằng Định thứ 2 (1601) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924),…

Đình So hiện lưu giữ được hệ thống tư liệu thành văn gồm: bia đá “Đại đình bi kí” có niên đại vào năm Dương Đức năm thứ 3 (1673), bia đá có niên đại vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1783), tảng đá kê chân cột hình hoa sen, rồng đá, nhang án gỗ chạm khắc khá tỉ mỉ mang phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII. Hiện vật giấy gồm cuốn thần tích, hương ước và 42 Đạo sắc, sớm nhất có niên đại là năm Hoằng Định thứ 2 (1601) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924),…

Mỹ thuật của đình So khá phong phú và đa dạng với những mảng chạm có giá trị mỹ thuật và mang tính kỹ thuật cao. Các mảng chạm khắc ở đình So tập trung chủ yếu ở Nghi môn, gian giữa tòa Đại đình và Ống muống

Mỹ thuật của đình So khá phong phú và đa dạng với những mảng chạm có giá trị mỹ thuật và mang tính kỹ thuật cao. Các mảng chạm khắc ở đình So tập trung chủ yếu ở Nghi môn, gian giữa tòa Đại đình và Ống muống

Đình so trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và cũng có các đợt trùng tu nên các mảng trang trí trong đình cũng có những kỹ thuật thể hiện khác nhau nhưng chung lại vẫn tạo được sự tổng thể và thống nhất tạo nên một công trình bề thế về không gian và giá trị về thẩm mỹ của đình So nói riêng và cho các ngôi đình Việt Nam nói chung

Đình so trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và cũng có các đợt trùng tu nên các mảng trang trí trong đình cũng có những kỹ thuật thể hiện khác nhau nhưng chung lại vẫn tạo được sự tổng thể và thống nhất tạo nên một công trình bề thế về không gian và giá trị về thẩm mỹ của đình So nói riêng và cho các ngôi đình Việt Nam nói chung

Các mảng chạm khắc ở Nghi môn được kết hợp nhiều phong cách khác nhau tạo ra sự đa dạng trong trang trí từ chạm nổi hoa lá cách điệu (Tùng – Cúc – Trúc – Mai) đến chạm bong hình tượng rồng nghê tạo nên được những không gian đa chiều của kiến trúc

Các mảng chạm khắc ở Nghi môn được kết hợp nhiều phong cách khác nhau tạo ra sự đa dạng trong trang trí từ chạm nổi hoa lá cách điệu (Tùng – Cúc – Trúc – Mai) đến chạm bong hình tượng rồng nghê tạo nên được những không gian đa chiều của kiến trúc

Trước cửa đại đình ở hai bên tam cấp được trang trí bằng 2 con rồng đá dài 1,55m rộng 70cm độ dày thân là 32cm có chiều cao 92cm với thân ngắn, mập mạp trán thấp, nhỏ nhặt, mũi và miệng to đuôi xoắn phía sau với vảy cá chép điểm xuyến bằng các họa tiết mây lửa

Trước cửa đại đình ở hai bên tam cấp được trang trí bằng 2 con rồng đá dài 1,55m rộng 70cm độ dày thân là 32cm có chiều cao 92cm với thân ngắn, mập mạp trán thấp, nhỏ nhặt, mũi và miệng to đuôi xoắn phía sau với vảy cá chép điểm xuyến bằng các họa tiết mây lửa

Đình làng So một năm có 3 lễ lớn, lễ hội từ mùng 8 tháng 2 âm lịch, lễ khao quân mùng 10 tháng 7 âm lịch, lễ Thánh hóa mùng 10 tháng 12 âm lịch. Theo ghi chép trong sách cổ thì hội diễn ra trong 3 ngày với các hoạt động rước kiệu, tế lễ, diễn xướng dân gian trong không gian đình làng

Đình làng So một năm có 3 lễ lớn, lễ hội từ mùng 8 tháng 2 âm lịch, lễ khao quân mùng 10 tháng 7 âm lịch, lễ Thánh hóa mùng 10 tháng 12 âm lịch. Theo ghi chép trong sách cổ thì hội diễn ra trong 3 ngày với các hoạt động rước kiệu, tế lễ, diễn xướng dân gian trong không gian đình làng

Trong ngồi đình gần 400 năm tuổi còn lưu giữ nhiều tư liệu hiện vật mang giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc

Trong ngồi đình gần 400 năm tuổi còn lưu giữ nhiều tư liệu hiện vật mang giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc

Với những giá trị đặc biệt về nhân vật lịch sử, kiến trúc độc đáo, đình làng So được xếp hạng di tích Lịch sử – văn hóa ngày 10/7/1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018

Với những giá trị đặc biệt về nhân vật lịch sử, kiến trúc độc đáo, đình làng So được xếp hạng di tích Lịch sử – văn hóa ngày 10/7/1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018

Thiên An

Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/dinh-so-danh-lam-de-nhat-xu-doai-post602746.antd