Đô thị cộng sinh: Hình thái sống thay cho đô thị cũ kỹ?
Liệu có thể nghĩ đến một đô thị trồng được rau, tái sử dụng nước, làm phân từ rác hữu cơ, giữ đất nông nghiệp như giữ một mạch sống giữa lòng phố thị?
Một buổi sáng sớm, khu chung cư ven đô Hà Nội lao xao. Những bà nội trợ trẻ, tay ôm điện thoại, tay xách túi vải, đi mua rau nhập từ Mộc Châu, cà chua từ Lâm Đồng, thịt gà gắn tem truy xuất nguồn gốc từ Đồng Nai. Tất cả những thực phẩm đó, sau hàng trăm cây số vận chuyển bằng xe tải, đậu lại trước cửa căn hộ xanh mướt ban công, bên dưới là lớp lớp bê tông và thảm cỏ cảnh. Cái chợ không mái, cái sân không ruộng, cái thành phố không cây ăn được - đang dần trở thành chuẩn sống mới.
Chúng ta đang sống trong một mô hình đô thị mà càng hiện đại, càng cách xa chuỗi sinh tồn cơ bản. Đô thị ấy tự tách mình ra khỏi đất đai, nơi vốn là gốc sinh dưỡng của sự sống. Từ câu chuyện về rau sạch đến khủng hoảng lương thực, ô nhiễm không khí, suy thoái môi trường, người đô thị Việt Nam đang đối mặt với một câu hỏi quan trọng hơn cả “ăn gì, ở đâu”: chúng ta đang sống như thế nào trong thành phố này?
Đây không còn là chuyện quy hoạch hay kỹ thuật hạ tầng. Đây là vấn đề của triết lý sống đô thị. Và trong bối cảnh ấy, một khái niệm dường như còn mới mẻ với Việt Nam đang manh nha tìm chỗ đứng: “đô thị cộng sinh” - một hình thái tổ chức không gian sống không chỉ xanh hơn mà còn nuôi dưỡng được sự tương hỗ giữa con người, tự nhiên, hệ sinh thái và sinh kế.
Liệu có thể nghĩ đến một đô thị trồng được rau, tái sử dụng nước, làm phân từ rác hữu cơ, giữ đất nông nghiệp như giữ một mạch sống giữa lòng phố thị? Thử đi tìm câu trả lời từ khái niệm đến thực tiễn - và từ những khả thể rất Việt Nam.

Toàn cảnh bãi giữa sông Hồng - vùng“đất chờ chuyển đổi” đang dần chuyển mình thành không gian sinh kế và cộng đồng. Ảnh: Quang Minh
“Đô thị cộng sinh” từ khái niệm đến nhu cầu tất yếu
“Đô thị cộng sinh” (symbiotic city hay symbiotic urbanism) là một khái niệm vẫn còn hiếm hoi trong hệ quy chiếu quy hoạch đô thị tại Việt Nam. Trong khi các mô hình như “đô thị thông minh”, “đô thị xanh” hay “đô thị sinh thái” đã trở thành một phần trong từ vựng chính sách và thị trường bất động sản thì “cộng sinh” - với nghĩa gốc là “sống cùng và sống nhờ vào nhau” - chưa được đặt đúng vào vị trí của nó như một mô hình phát triển đô thị toàn diện.
Khác với đô thị sinh thái vốn tập trung vào “xanh hóa” hạ tầng và không gian công cộng, đô thị cộng sinh đi xa hơn: nó đặt nền tảng trên sự kết nối sống động và tuần hoàn giữa các thành tố đất, nước, khí hậu, con người, công nghệ, thực phẩm và năng lượng. Đó là một đô thị không chỉ giảm tác động đến môi trường mà còn tích cực “nuôi dưỡng lại” hệ sinh thái.
Mô hình này lấy cảm hứng từ các chiến lược đã được triển khai ở một số nước: Kalundborg (Đan Mạch) là hình mẫu về khu công nghiệp cộng sinh (industrial symbiosis), nơi nước thải của nhà máy điện trở thành nước làm mát cho nhà máy bia và bùn thải lại được dùng làm phân bón. Nhật Bản với chiến lược Satoyama - phát triển các cộng đồng nông thôn - đô thị biết cộng sinh với rừng, sông, đồng bằng; hoặc đô thị tích hợp nông nghiệp ngay trong nội đô. Còn Singapore xây dựng các khu dân cư có trang trại thẳng đứng (vertical farm) trong lòng chung cư. Hay Cuba thời khủng hoảng đã phát triển hệ thống “nông nghiệp đô thị” để nuôi sống dân cư Havana bằng chính rau quả trồng trong thành phố.
Nhìn vào Việt Nam, ta cũng từng có những hệ sinh thái bản địa kiểu “cộng sinh” như thế - làng ven sông Hồng trồng chuối - nuôi cá - đốn tre; phố cổ Hà Nội với tầng tầng lớp lớp các nghề thủ công cộng cư, chia sẻ năng lượng sống và sinh kế; hệ thống làng xã ven đô phía tây Hà Nội mang tính chất không gian hỗn hợp nông nghiệp nông thôn và làng nghề tiểu thủ công nghiệp hay vườn ao chuồng kiểu VAC truyền thống… Đó chính là những cấu trúc cộng sinh trước khi khái niệm này được định danh.
Nhưng rồi đô thị hóa hiện đại, thay vì cộng sinh, lại chọn con đường tách rời: tách người ra khỏi đất, tách nước ra khỏi vòng tuần hoàn, tách thực phẩm khỏi nơi sống. Trong lúc đó khủng hoảng khí hậu, mất an ninh lương thực, thiếu đất xanh và áp lực giao thông đang đặt câu hỏi cấp thiết: liệu đã đến lúc cần một hình mẫu sống khác?
Những hạt mầm trong lòng phố
Nếu đô thị cộng sinh là một hình thái lý tưởng thì liệu trong thực tế Việt Nam đã có những biểu hiện manh nha nào cho mô hình này? Câu trả lời là “có” nhưng rời rạc, phi chính sách và dễ bị triệt tiêu bởi các cấu trúc phát triển cũ. Tại Hà Nội và TP.HCM, phong trào nông nghiệp đô thị từng nở rộ trong khoảng một thập kỷ qua, bắt đầu từ các mô hình trồng rau thủy canh, vườn sân thượng, thậm chí nuôi cá tại nhà vừa để phục vụ sinh hoạt, vừa tạo ra không gian cộng đồng.
Tại bãi giữa sông Hồng, vùng đất phù sa mà gần đây mới được đưa vào Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 với tư cách là không gian xanh, hàng chục hộ dân tự cắm cọc giữ đất, trồng chuối, nuôi ong, dựng lán, tạo thành một hệ sinh thái tạm cư - tạm trồng - tạm sống nhưng lại vận hành một cách cộng sinh khá hiệu quả. Những người trồng chuối ở đây không chỉ sống nương nhờ đất, mà còn bảo vệ dòng chảy sông Hồng khỏi bị san lấp.
Ở Hội An, một vài sáng kiến thử nghiệm như khu làng Nhiệt Đới hay trang trại hữu cơ Thanh Đông tích hợp du lịch sinh thái - nông nghiệp - cộng đồng dân cư bản địa đã tạo ra một mô hình nhỏ của cộng sinh bản địa. Ở vùng ven Đà Lạt, TP.HCM, nhiều trang trại giáo dục (educational farms) ra đời: nơi người dân thành thị, đặc biệt là trẻ em, được kết nối lại với quá trình trồng trọt, thu hoạch và hiểu giá trị của đất, nước, thực phẩm. Một số trường học tư thục đã đưa vườn rau, chuồng gà vào khuôn viên như một phần của triết lý giáo dục gắn với tự nhiên.

Toàn cảnh Khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền (Hải Phòng), mô hình mới về chu trình tuần hoàn trong một hệ sinh thái công nghiệp xanh. Ảnh: CTV
Thậm chí có những “khu đô thị sinh thái” như Ecopark, Văn Phú hay dự án đô thị sinh thái công nghệ cao ở Củ Chi từng quảng bá về không gian sống “hòa mình với thiên nhiên”. Tuy nhiên, đa phần các mô hình này dừng ở mức cảnh quan hoặc tích hợp một phần xanh hóa bề mặt chứ chưa thực sự trở thành mô hình đô thị cộng sinh đúng nghĩa, khi con người vẫn chỉ là người tiêu thụ chứ chưa tham gia vào chuỗi tuần hoàn sinh thái.
Một trường hợp đặc biệt là Khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) - nơi chất thải của nhà máy này trở thành nguyên liệu cho nhà máy khác, nước thải được tái xử lý, chất thải hữu cơ được ủ phân vi sinh, điện năng tái tạo từ khí methane… Tuy đây là một mô hình công nghiệp nhưng chính triết lý “vật chất không bao giờ là rác nếu được tái sử dụng đúng cách” hoàn toàn có thể là hạt nhân tư tưởng cho một đô thị cộng sinh.
Cộng sinh hay đối kháng?
Trong một cấu trúc đô thị hiện đại vốn quen với hạ tầng hóa mọi thứ - từ dòng sông, ngọn đồi đến nếp sống - ý tưởng về một thành phố sống hòa với tự nhiên dường như không khỏi bị xem là lãng mạn, thậm chí phi thực tế. Nhưng chính lúc đô thị rơi vào tình trạng nghẹt thở - khủng hoảng giao thông, ngập úng, ô nhiễm không khí, mất an ninh thực phẩm - thì khái niệm đô thị cộng sinh lại trở nên cấp thiết như một phương kế cải thiện tổng thể. Vấn đề là làm sao để một thành phố có thể học lại cách sống cùng đất đai và các chu trình tự nhiên?
Rào cản lớn nhất có lẽ vẫn là tư duy quy hoạch tách rời và cơ chế phân mảnh. Trong hệ thống quy hoạch hiện tại, đất nông nghiệp, nhất là ven đô bị mặc định là tài sản để chuyển đổi, là khoảng trống chưa được lấp. Luật pháp hiện hành gần như không cho phép tích hợp đất sản xuất nông nghiệp vào các mô hình nhà ở, càng không có cơ chế ưu tiên cho các mô hình tuần hoàn nhỏ như sản xuất phân vi sinh, lưu giữ nước mưa, tái sử dụng rác thải hữu cơ trong khu dân cư.

Vườn bậc thang trên mái nhà phố trồng rau ở Quảng Ngãi - minh chứng cho ý tưởng nông nghiệp thẳng đứng và thiết kế tuần hoàn. Ảnh: TAA Design
Mô hình quản trị đô thị hiện nay vẫn vận hành theo kiểu “chia lô trách nhiệm”: giao thông lo đường, tài nguyên lo đất, y tế lo trạm xá, xây dựng lo tầng cao, nhưng không có đơn vị nào chịu trách nhiệm tích hợp sự sống. Sự thiếu vắng của một tư duy tổng thể khiến các thiết kế cộng sinh thường bị coi là thứ yếu, trang trí, hoặc ngoại lệ mang tính thí điểm.
Một rào cản khác là quan niệm xã hội: nhiều người dân thành thị, đặc biệt lớp trung lưu, vẫn xem nông nghiệp là biểu tượng của lạc hậu, vất vả, “cái đã bỏ lại sau lưng”. Trong khi đó, việc làm đô thị lại thiếu đi các hoạt động thủ công, sản xuất quy mô nhỏ vốn là nền tảng để tạo ra sự cộng sinh.
Song, dường như tiềm năng đang đến từ chính bên dưới. Ngược lại với hệ thống cũ kỹ là một loạt tín hiệu từ cơ sở đang cho thấy sự tái lập quan hệ với tự nhiên đang âm thầm diễn ra: phong trào trồng cây - làm vườn - tái sử dụng rác hữu cơ trong giới trẻ đô thị đang phổ biến như một phong cách sống. Các nhóm thiết kế, kiến trúc sư trẻ ngày càng quan tâm đến vật liệu địa phương, nhà thấp tầng, kiến trúc khí hậu và không gian sống tích hợp tự nhiên. Phong trào khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, chuỗi thực phẩm minh bạch và hệ sinh thái giáo dục gắn với tự trồng - tự nuôi - tự hiểu đang lớn dần từ các cộng đồng nhỏ.
Đặc biệt, các làng nghề, làng ven đô, hay các vùng “bán nông thôn”, nơi vẫn giữ được quỹ đất và tri thức bản địa chính là những tế bào sống có thể nuôi dưỡng mô hình đô thị cộng sinh nếu được trao quyền thiết kế tương lai của chính mình.
Cộng sinh: một hình thái sống, không chỉ là quy hoạch
Đô thị cộng sinh không chỉ là một mô hình quy hoạch mới, càng không phải là giải pháp công nghệ hay khẩu hiệu phát triển bền vững. Đó là một hình thái sống, trong đó thành phố không đứng trên tự nhiên mà sống trong lòng nó. Ở đó đất không phải là thứ chờ được bê tông hóa mà là nền sinh dưỡng có thể tiếp tục sinh sôi. Rác không còn là gánh nặng mà là nguyên liệu cho một chu trình mới. Cư dân không chỉ là người tiêu thụ mà trở thành chủ thể tham gia vào chuỗi sống - hiểu được mùa, nước, ánh sáng, thức ăn - như một phần tất yếu của không gian đô thị.

Một sân thượng trong khu phố cổ Hà Nội xanh mướt, hình ảnh phổ biến của canh tác đô thị nhỏ lẻ, khơi cảm hứng cộng sinh. Ảnh: CTV
Điều quan trọng nhất là cộng sinh không thể áp đặt từ trên xuống. Nó không đến từ những bản vẽ quy hoạch có tỷ lệ 1/2.000, không sống được trong các khu đô thị quảng cáo bằng drone và phối cảnh 3D. Nó đến từ cách người dân được tham gia quyết định mình sẽ sống như thế nào, trồng gì, ăn gì, giữ lại điều gì từ quá khứ và thử nghiệm cái gì cho tương lai.
Ở Việt Nam, khi những khu đô thị mới mọc lên quá nhanh, còn những vùng ven đô như bãi bồi, làng nghề và đất đai có thể tái sinh vẫn chưa được nhìn như một phần của giải pháp thì cộng sinh vẫn chỉ dừng lại như một hình dung khả dĩ. Nhưng hình dung ấy đang lớn dần trong những vườn rau nhỏ, những mái nhà hứng nước mưa, những người trẻ đi học trồng trọt và cả trong những câu hỏi âm ỉ: “Liệu thành phố này có thể sống được - chứ không chỉ tồn tại?”.
Để trả lời câu hỏi ấy, có lẽ đã đến lúc các đô thị Việt Nam cần học lại cách sống như một sinh thể: biết nhận, biết cho, biết thở và biết nuôi dưỡng. Một thành phố không chỉ bền vững, mà còn bao dung và tử tế với đất, với người và với chính mình.
Dựa trên cơ sở dữ liệu Scopus, Fraccascia (2018) đã tìm kiếm theo các từ khóa nghiên cứu như "cộng sinh công nghiệp" và "thành phố/đô thị/khu đô thị" hoặc "cộng sinh đô thị" và tìm thấy 80 bài báo tiếng Anh gắn liền với các từ khóa trên được công bố trong khoảng gần 10 năm từ 2009 đến 2018. Sau khi tổng hợp và tuyển lọc, tác giả đã hệ thống lại 26 bài báo tiêu biểu có sự liên kết cao. Trong đó có 8 trường hợp nghiên cứu, 4 trường hợp ở Trung Quốc (Liễu Châu, Tế Nam, Quý Dương, Thẩm Dương), 3 trường hợp ở Nhật Bản (Kawasaki, thị trấn Shinchi, Tanegashima) và một ở Hàn Quốc (Ulsan).
26 bài báo này được chia thành 5 nhóm vấn đề chính: (1) mô tả các nghiên cứu trường hợp; (2) đánh giá các lợi ích tạo ra bởi cộng sinh công nghiệp; (3) đóng góp phương pháp luận; (4) các yếu tố tác động đến việc thực thi cộng sinh công nghiệp và (5) cộng sinh công nghiệp dựa trên năng lượng. Nguồn: Fraccascia, Luca. (2018). Industrial symbiosis and urban areas: a systematic literature review and future research directions. Procedia Environmental Science, Engineering, and Management 5 (2), 73-83.
Phạm Minh Quân - Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội