Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh: Nhiều ý kiến đóng góp vào dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính quốc tế
BẮC NINH- Tiếp tục chương trình làm việc, chiều 4/12, các đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ, cho ý kiến vào dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính quốc tế.

Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 4/12.
Các đại biểu Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành luật với các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn cũng như yêu cầu phát triển đất nước. Đồng thời, đóng góp nhiều ý kiến nhằm hoàn thiện nội dung của dự thảo luật.
Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn cho biết, tại điểm a, khoản 2, Điều 5 quy định về áp dụng pháp luật tại tòa án chuyên biệt: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc áp dụng pháp luật thì áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ tranh chấp”.
Nếu không đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định, làm rõ thế nào là “gắn bó nhất với quan hệ tranh chấp” có thể phụ thuộc nhiều vào nhận định chủ quan của thẩm phán, dẫn tới cách hiểu và á
p dụng không thống nhất giữa các vụ việc có tính chất tương tự. Điều này đặc biệt rủi ro trong môi trường tranh chấp tài chính quốc tế, nơi các giao dịch thường được thiết kế đa tầng, có các điểm kết nối pháp lý ở nhiều quốc gia.
Mặt khác, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ phức tạp đòi hỏi các bên phải có trách nhiệm cung cấp, chứng minh nội dung pháp luật nước ngoài mà họ đề nghị tòa án áp dụng. Trên thực tế, không hiếm trường hợp các bên không thể cung cấp đầy đủ hoặc cung cấp không chính xác nội dung pháp luật nước ngoài, dẫn đến khó khăn cho tòa án trong việc xác minh. Nếu không quy định rõ trách nhiệm và quy trình xác minh, tòa án sẽ phải tự tìm kiếm, thu thập hoặc đánh giá pháp luật nước ngoài, làm kéo dài thời gian tố tụng và có nguy cơ áp dụng sai hoặc thiếu cơ sở xác minh.
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung tiêu chí xác định “pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 để tránh cách hiểu và áp dụng tùy nghi. Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của các bên trong việc cung cấp thông tin, tài liệu về các yếu tố kết nối pháp lý và làm rõ nguyên tắc xử lý khi không xác định được pháp luật gắn bó nhất.
Tại khoản 1, Điều 12 liệt kê các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án chuyên biệt nhưng loại trừ “các vụ việc liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước”. Đại biểu cho rằng việc thiếu định nghĩa hoặc hướng dẫn cụ thể thế nào là “các vụ việc liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước” sẽ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy nghi, gây lúng túng cho cơ quan thụ lý cũng như dễ phát sinh mâu thuẫn về thẩm quyền giữa tòa án chuyên biệt và các tòa án nhân dân khác. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung định nghĩa hoặc tiêu chí xác định các vụ việc được coi là “liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước” để bảo đảm thống nhất khi áp dụng.
Về người đại diện, tại khoản 3, Điều 18 quy định: pháp nhân khởi kiện hoặc bị kiện tại tòa án chuyên biệt phải được đại diện bởi luật sư, trừ trường hợp quy tắc tố tụng có quy định khác. Đại biểu cho rằng, đây là quy định phù hợp với chuẩn mực quốc tế, bảo đảm chất lượng tranh tụng và tính chuyên nghiệp của quá trình giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Tài chính quốc tế. Tuy nhiên, quy định bắt buộc này có thể dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp, vốn có khả năng tài chính hạn chế. Việc thuê luật sư trong toàn bộ quá trình tố tụng có thể làm tăng đáng kể chi phí tuân thủ, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận công lý.
Để bảo đảm tính khả thi và cân bằng giữa yêu cầu chuyên nghiệp với điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể các trường hợp ngoại lệ, theo đó doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ có thể cử người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng khi vụ việc có tính chất đơn giản hoặc giá trị tranh chấp không lớn. Hoặc cho phép áp dụng mô hình đại diện giới hạn, theo đó doanh nghiệp có thể thuê luật sư thực hiện một phần thủ tục tố tụng quan trọng thay vì bắt buộc thuê toàn diện, nhằm giảm chi phí nhưng vẫn bảo đảm chuẩn mực pháp lý. Và xem xét cơ chế hỗ trợ pháp lý phù hợp hoặc xây dựng danh sách luật sư có mức thù lao phù hợp với khả năng của doanh nghiệp nhỏ khi tham gia tranh chấp tại tòa án chuyên biệt.

Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 4/12.
Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân tán thành quy định về thẩm phán như trong dự thảo Luật: Thẩm phán của Tòa án chuyên biệt bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài. Đây là bước tiến quan trọng để nâng cao tính quốc tế, sự tin cậy và tính độc lập của tòa án chuyên biệt. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng cần bổ sung các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ, trách nhiệm, tiêu chuẩn đạo đức và cơ chế xử lý vi phạm để tránh khoảng trống pháp lý khi vận hành.
Cần quy định rõ nghĩa vụ bảo mật của thẩm phán bởi phạm vi thông tin mà họ tiếp cận có thể bao gồm bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, tài liệu nội bộ của Trung tâm Tài chính quốc tế, dữ liệu tố tụng điện tử, thậm chí cả bí mật nhà nước trong một số giao dịch đặc biệt, cùng với toàn bộ hồ sơ vụ án, chứng cứ và quyết định xét xử. Đặc biệt, đối với thẩm phán nước ngoài, nguy cơ rò rỉ thông tin nhạy cảm hoặc phát sinh xung đột giữa nghĩa vụ giữ bí mật theo pháp luật Việt Nam và nghĩa vụ theo pháp luật nước sở tại là hoàn toàn có thể xảy ra.
Đại biểu cho rằng do thẩm phán nước ngoài có thể đang hoạt động nghề nghiệp tại quốc gia khác hoặc giữ vị trí trong các tổ chức luật quốc tế, nguy cơ phát sinh xung đột lợi ích là hoàn toàn có thể xảy ra nếu họ được phân công xét xử các tranh chấp liên quan đến các tổ chức, doanh nghiệp có quan hệ lợi ích với họ. Điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc lập, khách quan của Tòa án chuyên biệt và làm giảm niềm tin của các bên khi tham gia tranh tụng. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định rõ ràng về tiêu chuẩn phòng tránh xung đột lợi ích. Theo đó, thẩm phán không được tham gia xét xử nếu có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp đối với bất kỳ bên nào trong các vụ tranh chấp, hoặc nếu họ đang đảm nhiệm một công việc, chức vụ hay vị trí nghề nghiệp khác có khả năng tác động, chi phối hoặc làm suy giảm tính độc lập và vô tư trong quá trình xét xử.
Điều 13 hiện quy định ngôn ngữ sử dụng trước Tòa án chuyên biệt là tiếng Anh hoặc tiếng Anh kèm theo bản dịch tiếng Việt. Tuy nhiên, việc xác định cứng ngôn ngữ như vậy có thể gây hạn chế cho các bên tham gia giao dịch, đặc biệt trong các vụ việc có yếu tố quốc tế hoặc khi một bên là tổ chức, cá nhân Việt Nam.
Để đảm bảo quyền lựa chọn ngôn ngữ trong quá trình tranh chấp, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu quy định cho phép các bên tự do lựa chọn ngôn ngữ tranh tụng mà họ thấy phù hợp. Cụ thể, các bên có thể lựa chọn sử dụng tiếng Anh, tiếng Việt, hoặc song ngữ Anh–Việt. Đồng thời, cần bổ sung quy định về dịch thuật và chứng thực tài liệu, bao gồm: hồ sơ, tài liệu, lời khai nếu được trình bày bằng ngôn ngữ khác tiếng Việt phải được dịch sang tiếng Việt bởi phiên dịch viên được chứng nhận hoặc dịch thuật công chứng, nhằm đảm bảo tính minh bạch, chính xác và hợp pháp của quá trình tố tụng.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Anh phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 4/12.
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh cho rằng về việc mở rộng đối tượng lựa chọn thẩm phán, bao gồm cả công chức, viên chức, nhà khoa học, giảng viên, chuyên gia nghiên cứu… cần được nghiên cứu tiếp. Dự thảo yêu cầu tối thiểu 10 năm kinh nghiệm xét xử, giải quyết vụ việc liên quan đến đầu tư – kinh doanh, nhưng nhóm đối tượng này thực tiễn không có điều kiện tham gia xét xử để tích lũy thâm niên. Đề nghị điều chỉnh theo hướng tập trung vào tiêu chí đạo đức, sức khỏe, uy tín, trình độ chuyên môn sâu và khả năng tiếng Anh.
Về giải quyết, xét xử vụ việc trên môi trường điện tử (Điều 15), đại biểu đánh giá cao tinh thần thể chế hóa Nghị quyết 27 về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, dự thảo cần bổ sung quy định về xây dựng hệ thống hạ tầng điện tử thống nhất, bao gồm quản lý hồ sơ điện tử, chia sẻ tài liệu bảo mật, lưu trữ an toàn theo chuẩn mực quốc tế.
Dự thảo quy định Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bố trí kinh phí hoạt động cho Tòa án chuyên biệt; đồng thời có bố trí ngân sách địa phương. Tuy nhiên, cần cơ chế phân định rõ khi nào sử dụng ngân sách trung ương, khi nào sử dụng ngân sách địa phương để tránh chồng chéo và bảo đảm bố trí nguồn lực kịp thời.
Dự thảo dự kiến luật có hiệu lực từ 1/1/2026, thời gian chuẩn bị rất ngắn. Tòa án chuyên biệt là mô hình hoàn toàn mới; nhiều nội dung cụ thể còn phải quy định chi tiết trong nghị định. Vì vậy, đề nghị xem xét lùi thời điểm có hiệu lực để Tòa án nhân dân tối cao có đủ thời gian chuẩn bị nhân sự, quy trình và cơ sở vật chất.

Đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Việt Hà phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 4/12.
Về thành phần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của tòa án chuyên biệt, tại khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật hiện có 2 quan điểm khác nhau. Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà tán thành quan điểm 1: Việc xét xử sơ thẩm bằng 1 thẩm phán, không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân; trường hợp vụ việc phức tạp, theo đề nghị của các bên, Chánh án tòa án quyết định việc xét xử sơ thẩm bằng hội đồng gồm 3 thẩm phán. Việc xét xử phúc thẩm bằng hội đồng có 3 thẩm phán.
Theo đại biểu, quy định này phù hợp với Hiến pháp và yêu cầu đặc thù của thủ tục tố tụng tại tòa án chuyên biệt và tương đồng với thông lệ quốc tế. Do thủ tục tố tụng tại tòa án được quy định theo nguyên tắc của hệ thống thông luật, khác với pháp luật về tố tụng dân sự của Việt Nam, rút ngắn về thời gian, rút gọn về trình tự và linh hoạt để đáp ứng thực tiễn đầu tư, kinh doanh quốc tế. Trong một số trường hợp thì thẩm phán có thể bỏ bớt một số thủ tục, ra ngay quyết định giải quyết vụ việc mà không cần phải mở phiên tòa.
Tuy nhiên, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu thêm, có thể quy định theo hướng thành phần xét xử phúc thẩm có ít nhất 3 thẩm phán (thay vì quy định cứng là 3 thẩm phán) để có cơ sở pháp lý bổ sung thêm thẩm phán xét xử đối với các vụ việc phức tạp khi cần thiết, vì bản án, quyết định của tòa phúc thẩm là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành và không bị xem xét lại.
Cũng trong chiều 4/12, các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030.

Đại biểu Quốc hội Trần Văn Lâm phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, chiều 4/12.
Cho ý kiến vào dự thảo Nghị quyết này, đại biểu Trần Văn Lâm đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bảo đảm quán triệt đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70 và Nghị quyết 68.
Trong quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 70, đã xác định rõ: Nhà nước kiến tạo, giữ vai trò chủ thể hoạch định chính sách và kiểm soát hạ tầng năng lượng chiến lược; người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể phát triển năng lượng quốc gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, còn khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất. Đồng thời, Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh việc xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, tại Điều 8 của dự thảo Nghị quyết, khoản 1 và khoản 2 đều đưa ra các chính sách đặc thù chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước. Như vậy là đang khoanh vùng những dự án mà chỉ doanh nghiệp nhà nước được tham gia, không tạo điều kiện bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân.
Đại biểu kiến nghị xem xét điều chỉnh quy định tại Điều 8, bảo đảm phù hợp chủ trương khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng quốc gia. Ngay cả với những công trình đặc biệt như nhà máy điện nguyên tử, nếu doanh nghiệp tư nhân đủ năng lực và chịu trách nhiệm thì cũng nên được xem xét, thay vì loại bỏ chỉ vì lý do về sở hữu vốn.
Đại biểu đồng tình với mục tiêu tăng cường năng lực dự trữ xăng dầu quốc gia để bảo đảm an ninh năng lượng và phục vụ điều tiết kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay Quốc hội cũng đang thảo luận sửa Luật Dự trữ quốc gia. Trong đó xác định dự trữ quốc gia không chỉ nhằm phòng, chống thiên tai, tình huống đột xuất, mà còn hướng tới hình thành dự trữ chiến lược để điều tiết nền kinh tế.
Dự trữ xăng dầu là một trong những nội dung dự trữ chiến lược quan trọng. Tuy nhiên, việc đưa quy định về dự trữ xăng dầu quốc gia vào dự thảo Nghị quyết này cùng thời điểm nước ta đang sửa Luật Dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến trùng lặp, chồng chéo về phạm vi điều chỉnh, nguy cơ thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật. Do đó, đề nghị chuyển toàn bộ nội dung Chương VII về dự trữ xăng dầu sang dự thảo Luật Dự trữ quốc gia để bảo đảm thống nhất, đồng bộ.













