Doãn Hoàng Kiên trên đường đến bờ ba

Doãn Hoàng Kiên sinh năm 1970 trong một gia đình làm nghệ thuật xiếc cha truyền con nối. Bố anh làm xiếc từ thuở còn gánh Tạ Duy Hiển. Sau công tư hợp doanh thành Đoàn xiếc nhân dân Trung ương, Nhà nước. Kiên học Trường Xiếc Việt Nam, sau đó có đi thụ huấn nghệ thuật xiếc ở Liên Xô.

Sáng tạo nghệ thuật, xét cho cùng,
là một hành trình khám phá bản thân.

Đỗ Lai Thúy

Con nhà nòi lại có khuôn mặt điển trai, thân hình cao ráo, Doãn Hoàng Kiên đủ tư chất, cốt cách nghề nghiệp. Tiết mục “Thăng bằng kiếm trên thang” của anh biểu diễn trên toàn Việt Nam và đi nhiều nước như Nga, Thái Lan, Pháp, Nhật Bản,...

Nhưng rồi, sau một “cú ngã định mệnh”, tình cờ dẫn anh rẽ sang một hướng khác. Trong lúc dưỡng thương, anh lấy bút vẽ chơi, một vài bức của Kiên vô tình đến tay họa sĩ Mai Văn Hiến. Ông giới thiệu Kiên đến học cụ Phạm Viết Song để thi vào Đại học Mỹ thuật Hà Nội.

Thuở sinh viên (2000-2005), Doãn Hoàng Kiên đã tham gia triển lãm hội họa nhiều lần. Ra trường, Kiên làm nghệ thuật đương đại như phim ngắn, video art, trình diễn, sắp đặt tùy vào cái duyên đưa anh đến. Trong khi đó, anh vẫn theo dõi sát sao hội họa giá vẽ hiện đại phương Tây, nhất là cơ sở lý thuyết cho những vận động của nó. Kiên đồng thời cũng nhiều quan tâm đến văn hóa phương Đông, đặc biệt là minh triết.

Họa sĩ, nghệ sĩ Doãn Hoàng Kiên.

Họa sĩ, nghệ sĩ Doãn Hoàng Kiên.

Doãn Hoàng Kiên có 2 người thầy. Một là cha anh, người mở lối cho Kiên vào nghệ thuật. Hai là bố vợ anh, một nhà huyền học, một Lân Giác. Ông khai mở và gợi cảm hứng cho Kiên một cái nhìn vũ trụ sáng thế luận về vạn vật.

Hai người thầy này của Kiên, một nghệ thuật và một khoa học, đã tạo ra hai bờ của một dòng sông, để trong đó mọi thực hành nghệ thuật của anh đều hướng đến bờ thứ ba. Bờ này giống như một chân trời, mỗi khi ta đến gần được một bước, thì nó lại lùi xa ta một bước.

Chân lý nghệ thuật, do vậy, chỉ có thể tiếp cận được mà không thể chiếm hữu được. Đó cũng là lí do người nghệ sĩ phải dấn thân suốt đời. Hơn nữa, chính cái nhìn theo nguyên lý bao hàm vừa là... vừa là... này khiến Kiên tránh được lối tư duy độc thoại, bề mặt, một chiều lúc này rất phổ biến trong làng văn nghệ Việt Nam.

Kiên nhà ở Khâm Thiên, làm việc ở Liên đoàn Xiếc cạnh Công viên Thống Nhất, về sau lại học ở Mỹ thuật Yết Kiêu. Mỗi ngày đi về đều phải qua ngã tư Khâm Thiên - Nam Bộ có nút chắn tàu hỏa. Hàng trăm con người nhẫn nại đứng chờ trực trước thanh chắn sơn khúc trắng khúc đỏ. Cái tam khoanh tứ đốm này gợi đến sự nguy hiểm, một giới hạn hiểm nguy. Như con rắn cạp nong cạp nia khúc đen khúc vàng nhằm đe dọa kẻ thù không được đến gần nó. Thanh chắn tàu, như vậy, gợi cho Kiên ý tưởng về sự giới hạn.

Thời kì vẽ biểu hiện - trừu tượng, Doãn Hoàng Kiên đã đưa triết lý nhân sinh này vào nghệ thuật. Đầu tiên, Kiên mô phỏng các thanh chắn tàu mà hằng ngày đập vào mắt anh để làm sắp đặt. Những thân tre, luồng to nhỏ, dài ngắn khác nhau, sơn khoanh đỏ khoanh trắng, được chằng buộc, ghì siết lên nhau, khi thì ngay ngắn, khi thì lộn xộn, chồng chéo gợi nhớ đến những barrier vật thể, nhưng chủ yếu làm liên tưởng nhiều hơn đến những barrier tinh thần.

Như các tác phẩm "Mê cung của tâm hồn" (các thanh chắn xếp lộn xộn), "Vườn treo" (các thanh chắn đặt nằm ngang trên những sợi dây gợi nhớ đến sự bất túc: chân không đến đất, cật không đến trời), "Lễ tốt nghiệp" (các thanh chắn đứng thẳng hàng ngay lối gợi nhớ đến sự đồng loạt, giống nhau, phi cá tính)...

Còn khi vẽ tranh, Kiên đưa khái niệm barrier/giới hạn, và cái đối lập với nó là vượt qua, vào tranh chân dung.

Kiên vẽ nhiều về đầu người. Những cái đầu người được vẽ theo bút pháp biểu hiện thể hiện sự vặn xoắn cơ thể và nội tâm dường như muốn thoát ra khỏi cái khung nền cứng nhắc được làm bằng những thanh barrier. Những cái đầu của Kiên bất giác làm tôi nhớ đến “Người đen”, nhân vật trường ca cùng tên của Essénin, kẻ ám ảnh nhà thơ đến mức ông phải tự sát. Hay, đúng hơn là bóng âm (shardow) trong tâm lý học các chiều sâu của Jung, luôn sống thức trong mỗi người, đặc biệt ở các nghệ sĩ.

Cái đầu trong quan niệm của các triết gia Ánh sáng tượng trưng cho tư tưởng, cho trí tuệ người (chả là “con người đứng bằng đầu” mà), nhưng lại bị nhà họa sĩ coi là trung tâm của giới hạn. Ở “Người gác cổng” và "Đếm ngược" là sự đối lập giữa cái trật tự, cái được sắp xếp của đầu óc với cái mờ nhòe, không định hình, phi hình thể của cảm xúc.

Người gác cổng đứng dang tay trước barrier, còn đám đông hết kiên nhẫn nên hình thù bắt đầu tan chảy thành dòng, rớt xuống xóa nhòa cả những thanh giới hạn. Cái đầu trong "Đếm ngược" thì tự bốc cháy thành ngọn lửa thiêu trụi những tấm lưới giăng mắc xung quanh. Như vậy, nếu giới hạn tạo ra cái đẹp tiền hiện đại thì vượt qua giới hạn tạo ra cái siêu tuyệt hiện đại chủ nghĩa.

Hội họa Doãn Hoàng Kiên ở giai đoạn này chứa đựng một tam giác giới hạn, vượt qua và thời gian như một hằng số nghệ thuật của anh. Kiên chuyển từ kí hiệu - biểu tượng thanh chắn barrier với vạch liền, vạch đứt ám gợi đến dịch sang những hình kỉ hà học của tư duy âm dương ngũ hành. Mặt khác, anh đào sâu, hợp rộng những trải nghiệm tri kiến Đạo học phương Đông và thiên văn học vĩ mô với vật lý học vi mô. Một trí tuệ cảm xúc.

Đơn vị cơ bản của tranh Doãn Hoàng Kiên giai đoạn trừu tượng - tối giản tượng trưng là hình tròn, tam giác, chữ nhật, hình vuông như những nguyên âm ô, a, ú, ớ,... trong ngôn ngữ. Nhưng, để có thể biến cái hữu hạn thành cái vô hạn đủ để kể lại câu chuyện nghệ thuật của mình, Kiên, như nhà giả kim thuật, đã tạo ra nhiều biến hóa.

Chỉ một hình tròn thôi khi toàn màu trắng thì là tượng dương, không khí, chân không,...; khi toàn màu đen thì là tượng âm, đất,...; khi có trắng trong đen thì là sắc - không, chánh y bất nhị của Phật giáo; khi thêm vào một vài nét thủy mặc thì là mặt trời cùng những sợi mây lơ lửng giữa không trung hay mặt trăng nhô lên từ sóng nước.

Như vậy, mỗi hình kỉ hà, biểu tượng học của Kiên tự thân đã có nghĩa, nghĩa tự có. Nhưng, nó sẽ được dôi nghĩa khi nằm cùng những hình khác trong một bức tranh. Đó là nghĩa văn bản, nghĩa do những quan hệ tương ứng, đối lập, bao hàm, phụ thuộc mang lại. Nhưng, để bức tranh có ngôn ngữ, có tiếng nói nhất thiết phải có một ngữ pháp mà lại là một grammaire riêng thuộc, vi phạm hoặc chống lại ngữ pháp chung của mọi người. Nghĩa là bức tranh phải có cấu trúc, một câu chuyện để kể.

Bậc thầy của tư duy cấu trúc phải nói đến “Kinh Dịch”. Bức tranh thế giới mà Thánh thư này dựng lên chỉ được cấu tạo từ một vạch liền (-) tượng trưng cho đực và một vạch đứt (--) tượng trưng cho cái, một cặp đôi nguyên thủy. Về sau, cặp đôi cái đực này được nguyên lý hóa và mỹ hóa thành âm và dương. Chỉ với 2 đơn vị cơ bản này mà cấu trúc nên 8 quẻ kép và 64 quẻ đơn. Mỗi quẻ dự báo một hoàn cảnh, một con người và kể một câu chuyện về cuộc đời họ.

Điều này cũng tương tự như ở nghệ thuật Điềm Phùng Thị. Nữ điêu khắc gia này sống ở Pháp vào thời kì hưng thịnh của chủ nghĩa cấu trúc, lại hành nghề trồng/chữa răng nên sớm có tư duy cấu trúc luận. Bà sáng tạo ra những cấu kiện đúc sẵn rồi luân phiên lắp ghép chúng thành những pho tượng biểu hiện tối giản. Điêu khắc Điềm Phùng Thị trở thành một kiểu mẫu cho nghệ thuật kết hợp Đông - Tây, kim - cổ.

Tuy nhiên, nếu ở tượng Điềm Phùng Thị là một tư duy cấu trúc luận đóng kín thì ở tranh Doãn Hoàng Kiên là những cấu trúc mở. Câu chuyện nghệ thuật của Kiên, vì thế, không chỉ là ngũ hành Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ mà có chuyển hoán Hỏa Thủy Thổ Khí và Chân Không.

Khí là 1 trong 4 yếu tố của vũ trụ học phương Tây, còn Chân Không, một khái niệm của vật lý học hiện đại, thì không phải là thứ hư vô tuyệt tự của triết học Âu châu, mà là cái Không của Phật giáo/cái Vô của Lão giáo: vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh vạn vật. Chân không của/với Kiên là một không gian, đúng hơn một không - thời gian năng sản cho các yếu tố nghệ thuật của anh vận hành.

Sự chuyển động của tranh Doãn Hoàng Kiên dựa trên sự đối ứng và giải đối ứng của các cặp đối lập trong âm dương ngũ hành thời hiện đại. Còn màu sắc trong tranh Doãn Hoàng Kiên cũng có những chuyển dịch như vậy. Nhưng, không chỉ theo ngũ hành tương sinh tương khắc theo nguyên lý tương ứng các giác quan của nghệ thuật.

Tranh Kiên, vì vậy, vừa có màu sắc, vừa có âm thanh, vừa có cảm giác sần sùi hoặc nhẵn mịn... Tuy vậy, một vài bức tranh của Doãn Hoàng Kiên còn gây cảm giác nặng nề, khô cứng. Có thể là do cấu trúc quá vững chắc, tĩnh nhiều hơn động như thái âm trong đồ hình của Lão Tử. Hoặc, có thể còn thiếu một đối ứng tổng thể từ vi mô các đơn vị có sẵn đến vĩ mô toàn bộ bức tranh. Để giải tỏa cảm giác này, có lẽ, phải, bằng sự liên tưởng tự do của người xem, xây dựng được sự đối ứng của thế giới trong văn bản của bức tranh với thế giới bên ngoài, một vũ trụ ngoài vũ trụ.

Trong thời đại kĩ trị sự phát triển của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo một mặt sẽ san bằng tính chủ thể và sự khác biệt. Thế giới sẽ chỉ còn là những chuẩn định. Tuy nhiên, một khi cánh cửa này khép lại, thì một cánh cửa khác được mở ra. Trên mặt bằng của những tiêu chuẩn, lý do tồn tại thật sự chỉ là những lệch chuẩn, những phá cách.

Chính văn hóa, nhất là nghệ thuật, trong đó có tranh Doãn Hoàng Kiên sẽ là nơi bảo vệ được cái khác. Nó là cuộc tìm kiếm chân ngã của Doãn Hoàng Kiên. Hành trình đến cái tôi đích thực ấy, nếu đi đến cùng, sẽ một mặt bắt gặp cái nhân loại, mặt khác là cái tự ngã, cái tự nó đã là khác biệt. Đó là câu chuyện nghệ thuật của Doãn Hoàng Kiên.

Đỗ Lai Thúy

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/doan-hoang-kien-tren-duong-den-bo-ba-i788728/