Đoạn văn nghị luận văn học viết thế nào?
Đổi mới quan trọng làm thay đổi cách dạy và học Ngữ văn hiện nay là định dạng đề thi Ngữ văn gồm 2 phần đọc hiểu và tự luận.

Học sinh Trường THPT Trần Nguyên Hãn (Hải Phòng) trong tiết học Ngữ văn. Ảnh minh họa: INT
Học sinh phải tự nghĩ, tự viết đoạn văn và bài văn nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học theo giới hạn dung lượng là yêu cầu mới. Nhiều học sinh hiện còn rất lúng túng khi viết đoạn nghị luận văn học khoảng 200 chữ và bài văn nghị luận văn học chừng 600 chữ.
Yêu cầu của đoạn văn nghị luận văn học
Lâu nay, thầy cô các môn chấm bài vẫn ít coi trọng đến hình thức chữ viết, dùng từ, diễn đạt và cách trình bày. Thực hiện Chương trình GDPT 2018, thầy cô môn Ngữ văn rất băn khoăn và mong muốn có sự chỉ đạo thống nhất trong xử lý việc thí sinh viết đoạn văn khoảng 200 chữ ngắn quá (khoảng 15 dòng) hoặc dài quá (vài trang giấy).
Câu văn sai ngữ pháp, lỗi chính tả, chữ viết “không phải chữ Việt” cần được đánh giá như thế nào? Khi còn đánh giá xếp loại bằng điểm môn Ngữ văn thì có nên đặt ra ngưỡng Khá, Tốt, Trung bình, Yếu để ngăn ngừa tỷ lệ xếp loại môn Ngữ văn điểm Khá, Tốt cao ngất ngưởng.
Thi thử, thi tốt nghiệp mấy năm nay điểm Ngữ văn dưới Trung bình chỉ thấp hơn 10% không phản ánh đúng chất lượng thật việc dạy và học với 4 kỹ năng nói - viết - nghe - đọc môn Ngữ văn hiện nay.
Hướng dẫn chấm nào cũng quy định điểm hình thức (chữ viết, diễn đạt, trình bày) nhưng thầy cô vẫn bỏ qua, rõ ràng cần có chỉ đạo thống nhất từ cấp quản lý chuyên môn cao nhất.
Bài viết không đúng yêu cầu (sai lạc đề), không đọc được chữ Việt (chữ không đọc được, sai chính tả nhiều, sai ngữ pháp và diễn đạt không rõ ý) nhất định không đánh giá đạt điểm trung bình. Tôi nhớ hai mươi năm trước, chỉ tiêu kế hoạch của tổ chuyên môn đầu năm học trình Hội nghị viên chức, môn Ngữ văn và Toán chỉ cần 50% đạt điểm trung bình là đủ điều kiện xét thi đua.
Để thay đổi học sinh sử dụng tiếng Việt thiếu chuẩn, từ cấp Tiểu học, chúng ta có nên đặt chỉ tiêu trên 90% đạt điểm 5 trở lên môn Ngữ văn và Toán học? Bộ GD&ĐT đã quy định rõ về xếp loại học sinh nhưng thực hiện vẫn xu hướng năm sau cao hơn dẫn tới đánh giá kết quả học tập còn ảo, làm cho việc “học thật, chất lượng thật” càng khó khăn.
Theo đề tham khảo tốt nghiệp năm 2025 của Bộ GD&ĐT, ngày 18/10/2024, môn Ngữ văn, phần Tự luận có 2 khả năng: Viết đoạn nghị luận văn học và bài nghị luận xã hội hoặc đoạn nghị luận xã hội và bài nghị luận văn học. Nghị luận xã hội học sinh đã được thực hành nhiều.
Về đoạn văn nghị luận văn học, từ lớp 6 đến lớp 12 học sinh đều được học và viết. Học sinh viết nghị luận ghi lại cảm xúc về đoạn thơ, bài thơ và phân tích, nhận xét về nội dung và nghệ thuật nhân vật văn học, tác phẩm văn học ở lớp 9, lên trung học phổ thông, viết nghị luận văn học phân tích, đánh giá một đoạn trích/ tác phẩm văn học hoặc một tác phẩm nghệ thuật và so sánh hai sáng tác văn học theo thể loại.
Viết đoạn nghị luận văn học không phải dạng bài mới, đòi hỏi học sinh phải hiểu văn bản, hiểu nội dung sự việc, sự vật được tác giả thể hiện bằng các phương thức biểu đạt và ngôn ngữ. Bằng hiểu biết và theo năng lực, học sinh sẽ trình bày, diễn giảng, thuyết phục người đọc cùng hiểu vấn đề như mình hiểu.
Đoạn văn nghị luận văn học (phần đọc hiểu) yêu cầu viết khoảng 5 - 10 dòng nêu hiểu biết/ cảm nhận về chi tiết/ câu thơ/ hình ảnh/ từ ngữ/ tu từ… Đoạn văn 200 chữ (phần tự luận) thường yêu cầu nêu hiểu biết/ cảm nhận về đoạn thơ hoặc chi tiết, nhân vật, biện pháp nghệ thuật…
Bài văn (văn bản) có nhiều đoạn, mỗi đoạn văn thường gồm 3 phần mở đầu đoạn, phát triển đoạn (thân đoạn) và kết thúc đoạn. Có nhiều cách trình bày đoạn văn theo diễn dịch, quy nạp, kết hợp… Nếu đề không yêu cầu thì nên chọn diễn dịch hoặc kết hợp dễ viết.
Trình bày đoạn văn diễn dịch mở đầu là câu chủ đề, nêu ý chính của đoạn văn. Phần thân đoạn là phân tích biểu hiện của vấn đề; phần kết đoạn khẳng định và nêu ý nghĩa của vấn đề. Câu chủ đề nêu ý chính, nêu khái quát nhận xét, ý kiến về vấn đề. Đoạn văn về thơ có thể nêu tác giả, tác phẩm và nội dung chính của đoạn thơ/ bài thơ.
Đoạn văn về truyện giới thiệu tác giả, tên tác phẩm và nhận xét chung về vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật. Thân đoạn, học sinh sẽ lần lượt theo trình tự của đoạn thơ hoặc sự việc, suy nghĩ, hành động của nhân vật để làm rõ cho câu chủ đề.
Trả lời các câu hỏi là cách các em làm rõ từng nội dung và nghệ thuật của đoạn ngữ liệu. Mình hiểu từ ngữ, hình ảnh thơ miêu tả ai/ cái gì/ vấn đề gì và hiểu như thế nào? Nhân vật này có suy nghĩ, hành động, phẩm chất nào đáng suy nghĩ? Tác giả sử dụng những biện pháp nghệ thuật (tu từ, dùng từ, phương thức biểu đạt/ tình huống truyện, ngôn ngữ miêu tả, cách kể chuyện…) nào đặc sắc?
Vận dụng kiến thức về thể loại thơ, truyện được học để phân tích làm rõ cảm nhận của mình về đoạn trích của đề bài. Để đoạn văn đủ nội dung, chặt chẽ, mạch lạc, tránh lỗi dùng từ, chữ viết, học sinh luôn suy nghĩ, cẩn trọng viết.
Đặc biệt các em luôn đặt câu hỏi “mình đã viết gì, còn gì chưa viết để hoàn thiện đoạn văn”. Với thời gian chừng 30 phút, học sinh cần khẩn trương viết xong đoạn nghị luận văn học để chuyển sang viết bài nghị luận xã hội 4 điểm.
Học sinh có thể luyện tập tự viết đoạn văn ngắn 5 - 10 dòng phần đọc hiểu rồi tự luyện tập viết đoạn văn 200 chữ (khoảng 30 - 40 dòng). Ngữ liệu của đề thường tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật, do vậy các em bắt buộc phải đọc kỹ, ghi nhớ từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu về sự vật, sự việc hoặc nhân vật để cố gắng giảng giải, làm rõ nội dung biểu hiện và ý nghĩa của các biện pháp nghệ thuật.
Các em lưu ý, đoạn văn 200 chữ không thể viết đầy đủ và chi tiết các giá trị nội dung và nghệ thuật như bài nghị luận văn học. Các em cần chọn lựa từ ngữ và viết rất cẩn thận từng câu, chữ để đạt yêu cầu về hình thức.

Cô Ngô Giang Thanh Thụy - Tổ trưởng chuyên môn tổ văn Trường THPT chuyên Trần Hưng Đạo (Bình Thuận) và những học sinh giỏi môn ngữ văn. Ảnh minh họa: INT
Đoạn văn tham khảo
Tôi xin giới thiệu một số đoạn văn tham khảo tự viết. Cách viết đoạn văn nào cũng được chấp nhận nhưng viết hàm súc, trực tiếp giảng giải chi tiết, hình ảnh vẫn được nhiều người lựa chọn. Viết gián tiếp, so sánh, mở rộng phù hợp với học sinh năng lực khá giỏi.
Đoạn 1: Phân tích hiệu quả của các phép tu từ trong hai câu thơ sau bằng đoạn văn khoảng 5 - 10 dòng. (Câu 4 đọc hiểu, 1.0 điểm)
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
(Trích Chinh phụ ngâm - Đăng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm dịch)
Hai câu thơ trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn do nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm dịch đã thể hiện được tâm trạng nhớ thương, cô đơn của người chinh phụ. Thời gian,“khắc giờ” được so sánh dài “như niên”, một giờ trong nỗi nhớ mong, cô đơn của người vợ trẻ dài như một năm.
Bao nhiêu ngày dài mòn mỏi yêu thương chờ đợi của người vợ gửi nhớ thương về nơi biên giới xa xôi nơi chồng đánh giặc. Phép so sánh và cường điệu “mối sầu” rộng lớn, sâu sắc “tựa miền biển xa” đã diễn tả sự khổ sở và chìm đắm trong nhớ thương và buồn tủi cho duyên phận của người vợ trẻ.
Từ láy “đằng đẵng” được dịch giả chọn đã tô đậm thêm sự kéo dài mãi, dài hun hút của thời gian, từ láy “dằng dặc” cũng làm rõ thêm cảm giác về không gian rộng mãi, dài mãi đến vô tận như biển khơi. Câu thơ lục bát của thể thơ song thất lục bát của dịch giả Đoàn Thị Điểm đã giúp người đọc hiểu người chinh phụ là người vợ thủy chung và yêu thương chồng sâu sắc.
Đoạn 2: Phân tích hiệu quả của các phép tu từ trong đoạn thơ sau:
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa
nên trầm
Mỗi chú bé đều nằm mơ
ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng...
(Trích bài thơ Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên, 1965)
(Đề thi Ngữ văn học sinh giỏi 12, Vĩnh Phúc, năm 2024)
Trong bài thơ “Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?”, tác giả Chế Lan Viên đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ để bày tỏ niềm vui hạnh phúc lớn khi được sinh ra và lớn lên trên đất nươc Việt Nam anh hùng.
Bốn câu thơ trong đề bài đã liệt kê ước mơ, khát vọng của mỗi sự vật, mỗi con người, tất cả đều muốn góp công sức, tài năng để làm vẻ vang cho đất nước. Gié lúa muốn nhiều hạt để dân ta no đủ, đất nước hạnh phúc, cây gỗ nào cũng muốn hóa thành trầm hương quý giá, chú bé nào cũng khát khao thành những dũng sĩ đánh đuổi quân thù và mỗi dòng sông xanh quê nhà muốn thành nơi vùi chôn ngoại xâm.
Nhà thơ còn khéo léo dùng các hoán dụ “hạt, trầm, ngựa sắt, Bạch Đằng” giúp người đọc hiểu được khát vọng đẹp và ý nghĩa của tất cả con người và vạn vật đang từng ngày hiến dâng làm nên hạnh phúc, tự do, làm nên đất nước Việt Nam. Hạt lúa vàng nuôi sống dân mình mấy nghìn năm.
Gỗ hóa trầm hương là hương liệu rất giá trị. Ngựa sắt gắn với truyền thuyết chú bé Thánh Gióng đánh tan giặc và Bạch Đằng giang gợi nhớ về 3 chiến thắng lừng lẫy chống quân phương Bắc. Những năm miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ quốc ta từng ngày đổi mới, hạnh phúc, tươi vui, tràn đầy sức sống.
Biện pháp tu từ liệt kê và hoán dụ đã khắc họa thành công những hình tượng thơ đẹp về truyền thống yêu nước, hiến dâng tất cả làm cho đất nước mãi mãi đẹp tươi và hạnh phúc của nhân dân ta.
Đoạn 3: Từ ngữ liệu ở phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về chi tiết: “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình”.
(Theo đề thi khảo sát năm 2024 của Trường THPT Nguyễn Viết Xuân, Vĩnh Phúc)
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã viết thành công bi kịch của lão thợ săn ở bản Hua Tát trong truyện ngắn nổi tiếng “Con thú lớn nhất”. Chi tiết “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình” khép lại câu chuyện bi thương để lại nhiều ám ảnh cho người đọc.
Tên truyện mở ra sự tò mò lôi cuốn bao nhiêu thì kết thúc lại làm người đọc hụt hẫng bấy nhiêu. Cách kể chuyện ngôi 3 toàn tri biết hết, kể hết mọi chuyện về nhân vật “lão” không tên sống bằng nghề săn thú rừng với người vợ âm thầm và bị dân làng xã lánh. Rất nhiều ngày lão không bắn được con thú nhỏ nào.
Tâm trạng mệt mỏi, thất vọng, chán chường và hổ thẹn với danh tiếng đã đẩy lao vào cảnh trớ trêu. Lão “thần chết của rừng” đã từng bắn được con công đang múa, hôm nay tay không trở về và đã bắn được con công đang múa gần nhà lão. Sự nhầm lẫn của thợ săn đã giết chết người vợ thân thiết của đời lão.
Cái chết của vợ đã đánh thức lương tri, thức tỉnh và lão hiểu và lựa chọn cho mình sau bao nhiêu ân hận, sám hối với thân xác người vợ. Nhà văn không diễn giải, kể lại chi tiết sự việc mà chỉ miêu tả “vết đạn xuyên qua trán lão” những người đọc vẫn hình dung được suy nghĩ khổ đau và chọn cách giải thoát sai lầm của lão.
Câu văn “Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình” đầy hàm ý. Người đọc suy ngẫm về luật đời nhân quả, về nhân cách, lương tâm, về bản tính tàn nhẫn của thợ săn và cũng còn là thái độ lên án của nhà văn và công chúng về những người sống bằng nghề săn bắn, giết hại thú rừng vô hại…
Chi tiết chỉ có 2 câu văn ngắn nêu sự việc và nhận xét nhưng thật sự có sức gợi tả và gợi cảm lớn. Lối viết chân thực và hàm súc để người đọc tự lý giải đã tạo nên phong cách và thành công của Nguyễn Huy Thiệp trong nền văn xuôi Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỉ XXI.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/doan-van-nghi-luan-van-hoc-viet-the-nao-post722947.html