Doanh nghiệp cần nắm 'luật chơi' để tận dụng lợi thế xuất xứ từ FTA

Để khai thác triệt để lợi ích từ các FTA, doanh nghiệp cần thay đổi góc nhìn về quy tắc xuất xứ, coi đó là động lực lực để thay đổi, tiến gần hơn các chuẩn mực quốc tế.

Đáp ứng quy tắc xuất xứ - điều kiện tiên quyết

Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ thì các Hiệp định thương mại tự do (FTA) cùng các quy tắc xuất xứ có tác động ngày càng lớn đối với xuất, nhập khẩu hàng hóa ở các quốc gia.

Tận dụng lợi thế xuất xứ trong FTA được coi là đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu

Tận dụng lợi thế xuất xứ trong FTA được coi là đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu

Ở mỗi hiệp định sẽ có những quy định riêng về quy tắc xuất xứ. Chẳng hạn, để thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực và bảo đảm rằng các nước thuộc Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ là những người hưởng lợi chính của Hiệp định, các nước CPTPP đã thống nhất một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định xuất xứ của một hàng hóa cụ thể để được hưởng thuế quan ưu đãi trong CPTPP.

Các cam kết này được quy định chung tại Chương 3 về quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ, quy định cụ thể tại Phụ lục 3-D của Chương 3 về quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng.

Hiệp định CPTPP quy định 3 phương pháp để xác định xuất xứ của một hàng hóa, bao gồm: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy (Wholly Obtained - WO); hàng hóa được sản xuất từ nguyên liệu trong khu vực CPTPP (Produced Entirely from originating materials - PE); và quy tắc cụ thể mặt hàng (Product Specific Rules - PSR).

Theo đó, một sản phẩm hàng hóa sẽ được coi là đáp ứng yêu cầu về xuất xứ và được hưởng ưu đãi nếu thuộc một trong ba trường hợp sau đây: Trường hợp 1: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy là hàng hóa được trồng, thu hoạch hoặc đánh bắt ở trong khu vực các nước đối tác CPTPP. Ví dụ: Cây trồng, hoa màu như lúa gạo, tiêu, cà phê…; động vật sống như lợn, gà, bò, cừu, tôm, cá…

Trường hợp 2: Sản xuất hoàn toàn từ nguyên liệu trong khu vực các nước CPTPP. Một sản phẩm hàng hóa có thể được sản xuất từ các nguyên liệu có nguồn gốc khác nhau. Quy tắc cộng gộp trong Hiệp định CPTPP cho phép các nước CPTPP được coi nguyên liệu của một nước CPTPP như là nguyên liệu của nước mình khi sử dụng nguyên liệu đó để sản xuất ra một hàng hóa có xuất xứ CPTPP.

Ví dụ, tivi được sản xuất tại Việt Nam từ linh kiện điện tử ở Việt Nam, màn hình ở Malaysia, thiết bị điều khiển ở Nhật Bản (Nhật Bản, Việt Nam và Malaysia đều là các nước tham gia CPTPP) nên tivi được coi là có xuất xứ CPTPP.

Trường hợp 3: Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng (PSR). Đây là trường hợp phổ biến nhất hiện nay vì có rất nhiều sản phẩm được cấu thành từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau, và các nguyên liệu đó được sản xuất ở các chuỗi cung ứng toàn cầu tại nhiều quốc gia khác nhau để năng cao năng suất và tiết kiệm chi phí.

Theo Hiệp định CPTPP, hàng hóa được sản xuất tại các nước CPTPP không sử dụng nguyên liệu có xuất xứ hoàn toàn từ các nước CPTPP nhưng đáp ứng được quy tắc quy định trong Phụ lục 3-D của Chương 3 về Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng (PSR) thì vẫn được coi là hàng hóa có xuất xứ CPTPP và được hưởng ưu đãi.

Theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), hàng hóa được coi là có xuất xứ EVFTA khi thuộc một trong hai trường hợp sau đây: Trường hợp 1: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy. Trường hợp này bao gồm các hàng hóa được hình thành một cách tự nhiên trong lãnh thổ Việt Nam hoặc các nước thành viên EU (ví dụ khoáng sản, động vật, thực vật được hình thành tự nhiên và sản phẩm của các loài động thực vật này...).

Các trường hợp được coi là hàng hóa có xuất xứ thuần túy được quy định cụ thể tại Điều 4 Nghị định thư 1 của EVFTA. Ví dụ: khoáng sản khai thác trên lãnh thổ Việt Nam/EU, cây trái, rau quả mọc được trồng và hái lươm/thu hoạch trên lãnh thổ Việt Nam/EU, động vật sinh ra và lớn lên tại Việt Nam/EU, sản phẩm được đánh bắt, vớt bởi tàu mang quốc tịch Việt Nam/EU tại các vùng biển bên ngoài...

Trường hợp 2: Hàng hóa trải qua giai đoạn gia công hoặc chế biến đầy đủ. Trường hợp này bao gồm các hàng hóa được hình thành từ nguyên liệu có xuất xứ một phần hoặc toàn bộ từ EU/Việt Nam và được gia công hoặc chế biến tại Việt Nam/EU thỏa mãn các tiêu chí cụ thể được quy định cụ thể trong Phụ lục II của Nghị định thư 1 EVFTA.

Tại Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP được quy định ở Chương 3. Theo quy tắc này, hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu đáp ứng một trong ba trường hợp sau: Hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại một nước thành viên; hàng hóa được sản xuất chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ từ một hay nhiều nước thành viên; hàng hóa sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ nhưng đáp ứng quy định tại Quy tắc cụ thể mặt hàng.

Trong Quy tắc cụ thể mặt hàng, ngoài việc áp dụng quy tắc hàm lượng giá trị giá khu vực (RVC) hoặc quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC), một số dòng hàng hóa chất (thuộc các Chương 29 và 38) được áp dụng Quy tắc phản ứng hóa học tương đương với quy tắc RVC hoặc CTC.

Đối với quy trình cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hóa, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa bao gồm Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), chứng từ tự khai báo xuất xứ hàng hóa của nhà xuất khẩu đủ điều kiện, chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà xuất khẩu.

Việt Nam cùng với các nước thành viên RCEP (trừ Campuchia, Lào, Myanmar) bắt đầu triển khai thực hiện cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của nhà xuất khẩu không quá 10 năm sau ngày thực thi Hiệp định. Trường hợp chưa thể triển khai thực hiện trong 10 năm này, các nước được phép gia hạn tối đa 10 năm nữa để thực hiện cơ chế này.

Làm gì để khai thác triệt để lợi ích từ các FTA?

Các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã mở ra những cơ hội về hàng rào thuế quan lớn chưa từng có cho nhiều ngành hàng của Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và thâm nhập sâu hơn vào thị trường các nước thành viên.

Mỗi doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu quy tắc xuất xứ của từng thị trường

Mỗi doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu quy tắc xuất xứ của từng thị trường

Đơn cử, theo số liệu của Bộ Công Thương, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và thị trường CPTPP năm 2024 đạt 102,1 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm 2023. Năm 2019, ngay khi Hiệp định mới có hiệu lực, trị giá hàng hóa được cấp C/O và hưởng ưu đãi thuế quan là 0,7 tỷ USD, tương ứng khoảng 2% tổng kim ngạch xuất khẩu sang CPTPP, nhưng đến năm 2024, con số này đã tăng lên gần 5 tỷ USD, tương đương với 8,8%.

Tương tự, kể từ khi EVFTA có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã tăng từ 17,9 tỷ USD năm 2020 lên 51,72 tỷ USD năm 2024. Tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi theo EVFTA cũng tăng mạnh, từ 14,8% năm đầu lên 35,1% năm 2024 – một bước tiến thể hiện sự chủ động của doanh nghiệp trong việc tận dụng ưu đãi thuế quan.

Đáng chú ý, các ngành hàng có tỷ lệ cấp C/O cao gồm da giày (gần 100%) và thủy sản (84,4%). Riêng dệt may – một ngành có giá trị xuất khẩu lớn vẫn đang nỗ lực cải thiện do yêu cầu quy tắc xuất xứ khá nghiêm ngặt.

Trong bối cảnh môi trường thương mại toàn cầu ngày càng phức tạp, Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đã trở thành công cụ không thể thiếu giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ quy định, tận dụng ưu đãi thuế quan và xây dựng niềm tin với đối tác quốc tế.

Để gia tăng khai thác thị trường có FTA và nâng cao tỷ lệ sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ ưu đãi, Bộ Công Thương đã tập trung triển khai một loạt giải pháp đồng bộ để hỗ trợ doanh nghiệp khai thác thị trường có FTA, nâng cao tỷ lệ sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ ưu đãi.

Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế, chính sách để tạo hành lang minh bạch về xuất xứ hàng hóa, chú trọng quy định liên quan đến biện pháp phòng, chống gian lận xuất xứ. Hướng dẫn địa phương cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho đúng, đảm bảo hàng hóa có xuất xứ, xuất khẩu đi các thị trường FTA.

Ngoài ra, Bộ Công Thương còn tăng cường tập huấn và đào tạo mang tính cầm tay chỉ việc đến từng doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về đáp ứng các quy tắc xuất xứ trong FTA, cam kết quốc tế.

Mặt khác, phối hợp với cơ quan hải quan của nước nhập khẩu để đảm bảo đúng hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi thuế quan; có những biện pháp xử lý phù hợp với hàng hóa có vi phạm liên quan đến xuất xứ. Tham vấn về quy trình sản xuất đối với các mặt hàng trong quá trình đàm phán các FTA hoặc có những cam kết quốc tế với các nước đối tác. Cải cách thủ tục hành chính, giải đáp vướng mắc của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về quy tắc xuất xứ, cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O)…

Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu quy tắc xuất xứ của từng thị trường, lưu trữ hồ sơ đầy đủ và chỉ sử dụng nguồn thông tin chính thống để tránh rủi ro. Quy tắc xuất xứ chính là sợi dây nối giữa chính sách thương mại và năng lực sản xuất thực tế.

Tại tọa đàm “Tận dụng lợi thế xuất xứ trong CPTPP: Đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng”, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đã đưa ra ba khuyến nghị chính cho cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ nhất, thay đổi góc nhìn về quy tắc xuất xứ. Doanh nghiệp không nên coi quy tắc xuất xứ như một rào cản. Hãy nhìn đó là những tiêu chuẩn cần hướng tới, cần đáp ứng. Đồng thời coi đó là áp lực tạo động lực để thay đổi, giúp doanh nghiệp tiến gần hơn với các quy định chuẩn mực quốc tế. Nắm được quy tắc xuất xứ sẽ giúp doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp, đảm bảo hàng hóa được ưu đãi thuế quan, từ đó nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Thứ hai, chuẩn bị hệ thống lưu trữ chứng từ bài bản. Việc có chứng từ chứng nhận xuất xứ khi xuất khẩu chưa phải là kết thúc. Cơ quan hải quan nước ngoài có thể yêu cầu kiểm tra, xác minh xuất xứ sau thông quan. Doanh nghiệp cần có hệ thống lưu trữ bài bản, chuẩn chỉnh (chứng từ cứng hoặc mềm). Hệ thống lưu trữ tốt sẽ giúp doanh nghiệp sẵn sàng chứng minh hàng hóa đáp ứng xuất xứ khi được yêu cầu, tránh ảnh hưởng đến quá trình hưởng ưu đãi thuế quan.

Thứ ba, quy tắc xuất xứ thực tế là bộ quy tắc để xác định xem hàng hóa đến từ đâu, đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ hay nhóm nước nào, để đảm bảo đúng hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi thuế quan mà các nước dành cho nhau.

Chính vì vậy, doanh nghiệp nắm được quy tắc xuất xứ, nghĩa là chúng ta sẽ hiểu được cụ thể về việc chúng ta có kế hoạch sản xuất kinh doanh làm sao cho phù hợp, đáp ứng với quy định của nước nhập khẩu để hàng hóa của chúng ta khi xuất khẩu được ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ đó.

Nhiều ý kiến cho rằng, trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động, các FTA không chỉ là các hiệp định ưu đãi thuế mà còn là bộ công cụ giúp Việt Nam tái cấu trúc chuỗi cung ứng, nâng cao chuẩn mực sản xuất và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Việc tận dụng tối đa lợi thế này sẽ giúp doanh nghiệp Việt khẳng định vị thế trong mạng lưới thương mại toàn cầu.

Quỳnh Nga

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/doanh-nghiep-can-nam-luat-choi-de-tan-dung-loi-the-xuat-xu-tu-fta-434740.html