Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt tìm cách vào chuỗi cung ứng

Doanh nghiệp (DN) công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước đang có nhiều cơ hội phát triển trước xu thế chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu mà Việt Nam là một trong những mắt xích. Tuy nhiên, trên thực tế, ngành này vẫn còn nhiều khó khăn.

Các doanh nghiệp tham gia kết nối giao thương tại Hội nghị Kết nối giao thương giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản do UBND tỉnh tổ chức năm 2024. Ảnh: Vương Thế

Các doanh nghiệp tham gia kết nối giao thương tại Hội nghị Kết nối giao thương giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản do UBND tỉnh tổ chức năm 2024. Ảnh: Vương Thế

Cùng với những đầu tư hạ tầng, nhân lực, công nghệ và chính sách hỗ trợ từ Nhà nước thì các DN ngành CNHT đang nỗ lực để nâng chuẩn năng lực thích ứng với chuẩn mực quốc tế để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng sản xuất.

Bài toán nâng cao năng lực của ngành

TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ nhận định: Những năm gần đây, hệ thống chính sách và định hướng phát triển công nghiệp đã được bổ sung tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho DN. Nhờ đó, số lượng DN CNHT ngày càng gia tăng, nhất là trong chuỗi cung ứng cho các ngành chủ lực như: dệt may, da giày, điện tử và chế biến nông sản. Có nhiều sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn tham gia xuất khẩu và một số DN lớn đã tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Mặc dù vậy, CNHT vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, nhiều lĩnh vực công nghệ cao phụ thuộc vào nhập khẩu, sản phẩm của DN Việt chỉ dừng ở những chi tiết đơn giản, giá trị gia tăng thấp... Điều này kéo theo rủi ro không đáp ứng được tiêu chí của các hiệp định thương mại tự do (FTA), dễ bị áp thuế cao. Sản phẩm của Việt Nam cũng có nguy cơ bị coi là hàng trung chuyển khi mà tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành sản xuất chiến lược còn ở mức thấp…

Cùng quan điểm, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh (HASI) Võ Sơn Điền cũng nhìn nhận, dù có nhiều tiềm năng nhưng CNHT của Việt Nam vẫn còn manh mún, thiếu sự gắn kết, chưa hình thành một “hệ sinh thái” hoàn chỉnh và vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguồn linh kiện, thiết bị nhập khẩu.

Theo ông Điền, Đông Nam Bộ là trọng tâm của sản xuất, xuất khẩu và CNHT của Việt Nam. Do đó, việc kết nối, phát triển lĩnh vực này trong khu vực có tác động rất lớn đến sự phát triển ngành nói chung. Đây là thời điểm thích hợp để các DN, hiệp hội ngành nghề kết nối hình thành các chuỗi cung ứng có sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp mũi nhọn, đồng thời nâng cao khả năng hội nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Hiện nay, Đồng Nai đang nỗ lực để phát triển thêm các khu công nghiệp, mở rộng quỹ đất sạch phục vụ thu hút đầu tư. Tỉnh ưu tiên các lĩnh vực có công nghệ hiện đại, CNHT và hướng tới một số ngành chiến lược như công nghệ bán dẫn và hàng không…

Doanh nghiệp nỗ lực hơn để vào chuỗi cung ứng

Để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường nhập khẩu cũng như nhu cầu của đối tác FDI (DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) ở Việt Nam, đòi hỏi các DN phải không ngừng nỗ lực.

Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Cát Thái (Thành phố Hồ Chí Minh) giờ đây đã có hàng ngàn sản phẩm chi tiết, linh kiện. Các dòng sản phẩm chủ lực của công ty tập trung vào nhựa kỹ thuật cao, pallet nhựa, hạt nhựa tái sinh; chi tiết cao su; khuôn ép nhựa, khuôn dập; chi tiết kim loại, dập kim loại, gia công cơ khí: cắt, khoan, taro; giải pháp công nghiệp, thiết kế phần cứng, phần mềm…

Theo ông Lê Tuấn Anh, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Cát Thái, để có thể từng bước phát triển, nhiều năm qua DN đã nỗ lực xây dựng chuỗi cung ứng với năng lực cung ứng cho nhiều công ty khác nhau.

Tại Đồng Nai, dù vẫn đang ở quy mô nhỏ và vừa nhưng một số DN đã từng bước xây dựng được cho mình hệ thống khách hàng quốc tế. Công ty TNHH MTV Đại Á Thành (phường Long Bình, tỉnh Đồng Nai) chuyên sản xuất, gia công lắp ráp, cung cấp các loại sản phẩm dây cáp nối cho đồ điện tử như: máy lạnh, máy giặt, tủ lạnh, tivi... Nhờ sự nỗ lực, Đại Á Thành đã hợp tác, đưa sản phẩm của mình vào được các thương hiệu lớn như: Aqua, Nidec Sankyo, Cicor Anam, Sowel.

Theo ông Lê Trí Minh, Giám đốc công ty, DN cố gắng tham gia vào các chương trình hỗ trợ phát triển ngành của Nhà nước, địa phương. Đơn cử, nhờ sự hỗ trợ của Tổ Điều phối viên công nghiệp hỗ trợ Đồng Nai mà Đại Á Thành đã hợp tác được với các DN của Nhật Bản. Việc hợp tác với các DN FDI giúp các nhà sản xuất Việt Nam có thêm kinh nghiệm, nâng cao năng lực của mình, từ đó lần lượt có thêm đối tác mới, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Theo các DN, cùng với những chính sách chung về phát triển CNHT, sự đầu tư về hạ tầng và nhân lực thì sự nỗ lực tự thân của các DN cũng rất quan trọng. Trong xu thế dịch chuyển chuỗi cung ứng, dịch chuyển sản xuất, CNHT của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng tầm vị thế trên bản đồ công nghiệp thế giới.

Vương Thế

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/kinh-te/202509/doanh-nghiep-cong-nghiep-ho-tro-viet-tim-cach-vao-chuoi-cung-ung-f923c49/