Doanh nghiệp Việt nâng tầm, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do
Việc tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do mang lại hiệu quả thiết thực cả về doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu.

Bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc ITPC phát biểu tại hội thảo. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)
Việc hội nhập sâu với hàng chục hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương mở ra nhiều cơ hội thị trường, nhưng để biến cơ hội thành lợi ích thực tế, doanh nghiệp Việt cần nâng cấp năng lực nội tại một cách đồng bộ.
Đây là nhận định của các chuyên gia tại Hội thảo “Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp Việt Nam khi thực thi các Hiệp định thương mại quốc tế - FTAs” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp Cục Xúc tiến Thương mại, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25/9.
Cơ hội rộng mở từ các FTA
Bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam (Bộ Công Thương), thông tin: Việt Nam là một trong những quốc gia có tiến trình hội nhập quốc tế ấn tượng thông qua việc chủ động tham gia vào hàng chục hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương.
Tính đến hiện tại, Việt Nam đã ký kết 18 FTA, trong đó 17 hiệp định đã có hiệu lực (bao gồm Hiệp định Thương mại Việt Nam-Cuba), mở ra cánh cửa tiếp cận thị trường với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP toàn cầu, trong đó bao gồm các thị trường rộng lớn như khu vực Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Các đại biểu tham dự hội thảo. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)
Đáng chú ý, giai đoạn 2023-2024, doanh thu xuất khẩu đối với hàng hóa được hưởng thuế quan ưu đãi theo FTA đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 12,7%.
Cùng với đó, việc ký kết các FTA mang tính chiến lược đã khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các dây chuyền sản xuất từ các nước trên thế giới.
Riêng năm 2024, với độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch thương mại Việt Nam đã đạt hơn 786 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng trưởng hai con số ở mức 14,3%; mang lại thặng dư thương mại gần 25 tỷ USD.
Sự tăng trưởng này được thúc đẩy đáng kể bởi khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đóng góp tới 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đặc biệt ở các ngành hàng công nghệ cao như máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy móc và điện thoại.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, bà Trần Thị Ngọc Lan, Sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn Trà ANTO, kiêm Phó Trưởng phòng Kế hoạch Thị trường Công ty Cổ phần May Chiến Thắng chia sẻ: Việc tận dụng ưu đãi từ các FTA mang lại hiệu quả thiết thực cả về doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu. Cụ thể, Công ty Cổ phần May Chiến Thắng đã đạt 90% doanh thu từ xuất khẩu vào EU nhờ chủ động tìm kiếm nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước.
Trong khi thương hiệu Hibiso của Công ty ANTO cũng đã thành công xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Hàn Quốc và Hà Lan, được miễn thuế nhập khẩu nhờ việc tuân thủ các quy định như sản xuất tại nhà máy đạt chuẩn GMP và được kiểm định bởi tổ chức SGS.
Dẫn chứng về lợi thế khi tận dụng ưu đãi theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), ông Vũ Hoàng Nam Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sienna Việt Nam, cho biết: Sản phẩm bút kiểm tra sức căng bề mặt màng bao bì nhựa (HS Code 96082000) có mức thuế thông thường lên đến 37,5%, mức thuế ưu đãi của WTO là 25% .
Tuy nhiên nhờ hiệp định EVFTA, từ năm 2023 thuế nhập khẩu mặt hàng này vào EU đã về 0%. Có thể thấy rõ mức thuế ưu đãi của hiệp định EVFTA tạo nên lợi thế cạnh tranh vượt trội, giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường EU với chi phí thấp hơn.
Nhìn chung, các FTA đang cung cấp “đòn bẩy” mạnh mẽ để doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu, thu hút FDI và định vị sản phẩm Việt trên các thị trường có chỉ tiêu chất lượng cao.
Tối ưu hóa lợi ích

Bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam thông tin tận dụng FTAs tại hội thảo. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)
Mặc dù độ bao phủ của các FTA với hầu hết ngành hàng và thị trường xuất khẩu quan trọng ngày càng lớn, song tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt mới chỉ ở mức trung bình khoảng 30-40%.
Bà Bùi Hoàng Yến phân tích số liệu cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) năm 2024 và chỉ ra sự chênh lệch đáng kể giữa các thị trường. Trong khi tỷ lệ tận dụng ưu đãi FTA ở các thị trường truyền thống như Ấn Độ, Trung Quốc, ASEAN khá cao, đạt từ 40 -65% thì tỷ lệ hàng hóa tận dụng ưu đãi ở các FTA thế hệ mới còn rất khiêm tốn, cụ thể tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) mới đạt 1,83% và Hiệp định CPTPP đạt 8,84%.
Theo bà Bùi Hoàng Yến, những rào cản chính bao gồm sự phụ thuộc vào các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc; tỷ lệ nội địa hóa còn thấp dẫn đến sản xuất đòi hỏi nhiều nguyên phụ liệu nhập khẩu; rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng khi nguồn nhập bị gián đoạn; áp lực tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ và quy định thương mại.
“Để biến các thách thức thành cơ hội phát triển, doanh nghiệp cần chủ động đầu tư nâng cao chất lượng môi trường và điều kiện lao động để tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Song song đó, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ và tăng cường liên kết nội khối là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực, đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ. Hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với khối FDI cũng được khuyến khích nhằm tạo ra sức mạnh cộng hưởng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng từ nhà nước sẽ là đòn bẩy quan trọng để doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đủ nguồn lực để tuân thủ các yêu cầu của FTA,” bà Bùi Hoàng Yến khuyến nghị.
Bàn về giải pháp nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi RCEP, bà Nguyễn Thị Trọng Nghĩa, Phó Trưởng phòng Quản lý xuất nhập khẩu khu vực thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững quy tắc xuất xứ và cơ chế “Khác biệt thuế.”
Theo đó, hàng hóa trong khối RCEP được chia thành hai nhóm: xuất xứ thuần túy (sản phẩm nông nghiệp, khoáng sản, hải sản…) và xuất xứ không thuần túy, sản xuất từ nguyên liệu nhiều nước, phải đáp ứng tiêu chí như hàm lượng giá trị khu vực tối thiểu là 40%, chuyển đổi mã số hàng hóa hoặc phản ứng hóa học.
Điểm then chốt là cơ chế “Khác biệt thuế”, khi một số nước áp mức thuế khác nhau cho cùng sản phẩm tùy nguồn gốc xuất xứ. Ví dụ, Nhật Bản miễn thuế ngay cho dệt may từ ASEAN, Úc, New Zealand, nhưng áp lộ trình 16 năm với hàng từ Trung Quốc, Hàn Quốc.
Do đó, xác định đúng “nước xuất xứ RCEP” trên chứng nhận xuất xứ (C/O) quyết định trực tiếp mức thuế ưu đãi. Với sản phẩm có nguyên liệu từ nhiều nước, tỷ lệ đóng góp từ 20% trở lên sẽ xác định nước xuất xứ; nếu thấp hơn, áp dụng quy tắc dự phòng.
Đây là yếu tố chiến lược giúp doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tối đa ưu đãi thuế quan từ RCEP.
Ở góc độ quản trị, bà Đinh Thị Hương Giang, Giám đốc Tư vấn, Công ty Kiểm toán và Tư vấn Grant Thornton Việt Nam, cho rằng, các FTA tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu cao hơn về sự phát triển bền vững.
Các tập đoàn quốc tế khi tìm kiếm nhà cung cấp mới sẽ tập trung vào nhiều khía cạnh, bao gồm minh bạch pháp lý và tài chính, tuân thủ quy định quốc tế, cam kết ESG, cũng như khả năng kiểm soát rủi ro và cải tiến liên tục.
Việc chuẩn bị kỹ lưỡng cho quá trình thẩm định sẽ giúp doanh nghiệp “ghi điểm” trước các đối tác lớn.
Từ kinh nghiệm thực chiến, bà Trần Thị Ngọc Lan cho rằng, để thành công trong việc xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh bao bì, chuyển sang sử dụng các nguyên liệu có thể tái chế; ứng dụng công nghệ như blockchain để truy xuất nguồn gốc, đảm bảo tính minh bạch của chuỗi cung ứng.
Theo bà Trần Thị Ngọc Lan, doanh nghiệp cần liên tục đánh giá và điều chỉnh chiến lược theo các tín hiệu mới của thị trường. Điều này đòi hỏi phải thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật của nước nhập khẩu, ví dụ như quy định về nguyên liệu tái chế tại EU, cũng như theo dõi lộ trình thực thi các FTA như để tra cứu thuế suất.
Việc chú ý đến các tín hiệu thị trường để tra cứu mã HS hợp lý cũng là một yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp đưa ra quyết định kinh doanh kịp thời và hiệu quả./.