Đôi điều về vần trong thơ lục bát

Vần trong thơ lục bát, nhìn qua tưởng đơn giản mà khá phức tạp, khảo sát kỹ, nhiều khi thấy nó tỉ mỉ đến... lắt nhắt, phải mất không ít công sức. Nhưng cũng vì vậy mà có những khi nhìn ra nhiều điều thú vị.

Ở đây, ta chỉ xem xét cụ thể một số trường hợp hẹp, trong phạm vi vần của những câu lục bát đi liền với nhau, mà chúng là những loại vần cơ bản trong loại thơ này.

Ta biết, giữa câu lục và câu bát có hai loại vần: vần chính và vần thông. Vần chính, xét trong yêu cầu nghiêm ngặt của nó, phải có những nguyên âm và phụ âm hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn, trong hai câu ca dao:

Chàng đi cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

thì cùng và lùng hiệp với nhau bởi nguyên âm u và hai phụ âm n, g.

Vần thông không buộc phải như vậy, mà khá... thoải mái. Chẳng hạn, trong hai câu ca dao:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

thì Sơn và nguồn hiệp với nhau bằng hai nguyên âm ơ, ô và phụ âm n - mặc dù các nguyên âm chỉ khác nhau một cái dấu.

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm kinh điển nhất của văn học Việt Nam được viết theo thể lục bát.

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm kinh điển nhất của văn học Việt Nam được viết theo thể lục bát.

Bây giờ, đi sâu một mức nữa, ta xem vần chính trong thơ lục bát đa dạng như thế nào. Trong hai câu thơ:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

(Truyện Kiều)

câu lục vần với câu bát bằng một nguyên âm (a)

Trong hai câu thơ:

Một năm thêm mấy tháng rồi
Thu đi đông lại bồi hồi sắp xuân

(thơ Xuân Diệu)

thì câu lục vần với câu bát bởi hai nguyên âm (ô và i)

Trong hai câu thơ:

Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò

(thơ Nguyễn Bính)

thì câu lục vần với câu bát bởi một nguyên âm (ô) và hai phụ âm (n, g).

Trong hai câu thơ:

Xa nhau gió ít, lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh

(thơ Trần Huyền Trân)

câu lục vần với câu bát bởi một phụ âm (h) và ba nguyên âm (i, ê, u),...

Đại loại là như vậy. Ta không có điều kiện đi sâu hơn mà dừng lại ở đây để nhấn mạnh rằng vần chính rất cần trong thơ lục bát. Đọc nó, nghe êm tai, dễ chịu. Còn vần thông thì có ít nhiều trúc trắc, trục trặc... lắm khi còn khó nghe nữa!

Vấn đề là ở chỗ, muốn dùng vần chính thì phải dụng công hơn là vần thông. Vì vậy, dễ thấy một đặc điểm trong thơ lục bát: ít vần chính, nhiều vần thông. Một bài lục bát dài mười câu trở lên mà có toàn vần chính là khá hiếm!

Nhà thơ Nguyễn Bính viết nhiều bài thơ lục bát như thế mà chỉ có một bài mười câu toàn dùng vần chính. Đó là bài "Đường rừng chiều". Nhà thơ Tố Hữu viết nhiều thơ lục bát như thế mà chỉ có một bài 20 câu toàn dùng vần chính. Đó là bài "Làng Thượng".

Điều đáng mừng là sau các thế hệ trước, nhiều nhà thơ đương đại của chúng ta lâu nay sử dụng thơ lục bát tiếp nối truyền thống có nhiều sáng tạo. Tôi nghĩ đến Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ, Đặng Vương Hưng... và một số người làm thơ trẻ. Trong số đó, có lẽ người có ý thức rõ nhất dùng nhiều vần chính cho thơ lục bát của mình là Lê Đình Cánh và Đặng Vương Hưng. Các bài thơ lục bát của họ có mật độ vần chính cao. Nếu tôi không lầm thì "Đền thờ hạt lúa" 34 câu là bài lục bát toàn vần chính dài nhất của Lê Đình Cánh, và cũng là bài lục bát có toàn vần chính dài nhất trong thơ ta từ trước đến nay. Nhà thơ Đặng Vương Hưng cũng có bài lục bát khá dài (22 câu) toàn dùng vần chính. Đó là bài "Quê tôi có mấy cụ bà".

Cũng nên lưu ý rằng, nếu dùng quá nhiều vần chính trong thơ lục bát, dễ gặp mấy điều bất cập. Thứ nhất, người viết không được thoải mái lắm vì phải dụng công tìm vần (mà tìm vần chính vất vả hơn nhiều so với vần thông), có khi làm cho ý tứ của mình bị gượng ép. Thứ hai, dễ gây cho người đọc cảm giác đơn điệu, vì phải đọc một giọng đều đều mãi...

Bây giờ, hãy đọc mấy bài thơ đề cập ở trên, mà tôi đoán chắc rằng các tác giả đã cố ý, đã chủ trương chỉ dùng mỗi vần chính trong cả bài. Đó là "Đường rừng chiều" (Nguyễn Bính), "Làng Thương" (Tố Hữu), "Đền thờ hạt lúa" (Lê Đình Cánh), "Quê tôi có mấy cụ bà" (Đặng Vương Hưng).

Đường rừng chiều
(Nguyễn Bính)

Lữ hành bắt gặp quán cơm,
Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng.
Đèo cao cho suối ngập ngừng,
Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng
lửng chiều.
Giăng non như một cánh diều
Trẻ con phất dối thả liều lên mây.
Chim nào kêu mỏi ngàn cây
Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe.
Đồi sim dan díu nương chè
Trắng phau khói núi, xanh áo ai...

Thái Nguyên, 1938

Làng Thượng
(Tố Hữu)

Nhớ đường, chạy xuống Nga Sơn
Về thăm làng Thượng, vừa hơn nửa đời
Ngày xưa ấy, tuổi đôi mươi
Như chim bạt gió tìm nơi náu mình.
Đồng chua ruộng trũng lầy sình
Mà lòng người lại ơn tình ngọt thơm
Dành cho củ sắn miếng cơm
Dành cho tấm chiếu ổ rơm ấm cùng.
Hôm nay vui sướng lạ lùng
Chiều xanh bát ngát một vùng lúa xuân
Trở về xóm cũ quen thân
Mái đầu ngả bạc mà chân bồn chồn
Bạn già ra đón đầu thôn
Bốn mươi năm… biết mấy hôn cho vừa!
Cười khà… Vẫn vậy, như xưa
Thương dân thương nước nên chưa thấy già.
Mừng nhau không rượu không hoa
Cùng nhau chén nước vườn nhà chè tươi
Tạm chia tay, chẳng muốn rời
Bâng khuâng trông lại bạn đời, chiều sương...

Thanh Hóa, 11/1/1982

Quê tôi có mấy cụ bà
(Đặng Vương Hưng)

Quê tôi có mấy cụ
Suốt ngày kể chuyện cửa nhà cười vang

Chuyện trong xóm chuyện ngoài làng
Chuyện xưa đi liếc mấy chàng giai tơ...

Thị Mầu nổi tiếng lẳng
Cũng thua mấy cụ bây giờ tiếu lâm

Cục đá còn chẳng lặng câm
Nữa là khúc gỗ đã ngâm lâu rồi

Rủ nhau mấy cụ cùng ngồi
Í ới câu hát song đôi "chàng - nàng"

Răng móm chẳng đủ hai hàng
Nhai trầu bỏm bẻm lại càng ngộ ghê

Cụ ông nào thấy cũng
Lân la tán chuyện cà xa gần

Đi thì gậy phải đỡ chân
Mà tim loạn nhịp bần thần nhớ xưa...

Tại trời hôm ấy đổ mưa
Để "anh" chẳng kịp đón đưa giận hờn...

Tại đất hôm ấy đường trơn,
Để "em" nay phải cô đơn khác nhà...

Quê tôi có mấy cụ
Suốt ngày buôn chuyện cũ ... vui ghê!

Bắc Giang 9/3/2019

Đền thờ hạt lúa

(Lê Đình Cánh)

Ngôi đền xây tự thuở nào
Rễ đa nay đã len vào bát hương
Nghĩ đời đôi hạc mà thương
Muốn bay chân lại còn vương đôi rùa!
Nơi đây xưa mở hội mùa
Kinh Kỳ xa vậy mà vua cũng về
Lọng tàn che rợp đường quê
Cờ bay vòng xuống chân đê cuối làng
Vua đi gặt: Lưỡi hái vàng
Tay cầm nạm ngọc hai hàng long lanh
Mấy vòng yếm thắm khăn xanh
Cúi đầu dâng tấc lòng thành chốn quê!

Vua đi. Tàn lọng cuốn về
Tịch điền bỏ hóa tư bề cỏ may!
Con dân ở lại chốn này
Chiều trơ gốc rạ mùa cày đã lo
Bạc điền tính chuyện phân tro
Đồng cao sức kéo lo thay trâu
Lo gầu vục nước đồng sâu
Vầng trăng gác núi lo câu tâm tình
Lo khi đập lúa sân đình
Người ơi ta sẽ gọi mình là chi...

Cuộc đời cứ thế trôi đi
Qua bao thế hệ cũng bát cơm
Được mùa đũa nặng tay đơm
Mất mùa dạ xác như rơm cũng đành
Sớm khuya ước những no lành
Lưng cơm lẻ gạo hóa thành linh thiêng
Lập đền hương khói thờ riêng
Gọi là hạt Thóc vì kiêng húy thần!

Cõi thiêng hương khói lạnh dần
Còn mơ ước cũ vẫn gần hôm nay
Sân đền đôi lứa cầm tay
Tình yêu đâu phải cầu may được mùa.

Hồng Diệu

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/doi-dieu-ve-van-trong-tho-luc-bat-i761818/