Đổi mới chính sách thuế theo tinh thần các nghị quyết của Trung ương
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức và cơ hội đan xen, việc hoàn thiện chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Trong tiến trình đó, Bộ Tài chính đóng vai trò nòng cốt trong tham mưu, hoạch định và triển khai hiệu quả các chính sách tài khóa, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

Chính sách thuế trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục đóng vai trò "chìa khóa" để Nhà nước điều tiết vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Thiết kế chính sách thuế theo các định hướng lớn
Các nghị quyết quan trọng được Đảng ban hành thời gian gần đây như Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 10/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu và định hướng lớn trong việc hoàn thiện thể chế, trong đó chính sách thuế, phí tiếp tục được xác định là công cụ then chốt để tạo động lực cho khu vực doanh nghiệp phát triển bền vững.
Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu hoàn thiện các chính sách thuế, phí nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn cho nghiên cứu – phát triển, đổi mới công nghệ và chuyển đổi số. Đây là nền tảng để xây dựng các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chi phí R&D, miễn giảm thuế giá trị gia tăng cho sản phẩm công nghệ cao, và tăng cường hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tác động của chính sách này không chỉ giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào mà còn thúc đẩy hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nghị quyết số 59-NQ/TW đặt trọng tâm vào việc nâng cao năng lực nội sinh và khả năng thích ứng trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong đó, việc cải tiến hệ thống chính sách thuế và phí theo chuẩn mực quốc tế, loại bỏ rào cản thuế quan bất hợp lý, và tăng cường ưu đãi có chọn lọc cho doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là những giải pháp được đặt ra. Chính sách thuế trở thành công cụ hỗ trợ quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt.
Nghị quyết số 66-NQ/TW yêu cầu đổi mới toàn diện công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó nhấn mạnh đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính – ngân sách, bao gồm chính sách thuế, phí, lệ phí. Việc xây dựng pháp luật thuế cần được thực hiện theo hướng minh bạch, ổn định, nhất quán và dễ dự đoán, tạo sự yên tâm cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược đầu tư, kinh doanh lâu dài. Đồng thời, tăng cường tham vấn cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính sách cũng là một yêu cầu được nhấn mạnh, thể hiện cách tiếp cận lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong cải cách thể chế.
Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã xác định rõ phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những giải pháp then chốt là tiếp tục cải cách mạnh mẽ chính sách thuế, phí để tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí tuân thủ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển năng động và hiệu quả hơn. Nghị quyết cũng yêu cầu xóa bỏ các rào cản, bất cập trong quản lý thuế, bảo đảm môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, trong tiến trình cụ thể hóa các định hướng này, Bộ Tài chính giữ vai trò nòng cốt trong việc tham mưu, thiết kế và điều chỉnh hệ thống chính sách thuế, phí phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Bộ Tài chính đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như sửa đổi các luật thuế chủ chốt, hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý thu – nộp thuế, và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Đồng thời, Bộ Tài chính chủ động đánh giá tác động chính sách trước và sau khi ban hành, đảm bảo chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đúng mục tiêu, trúng đối tượng và phát huy hiệu quả trong dài hạn.
Tiếp tục hoàn thiện các thể chế, chính sách thuế
Trong việc hiện thực hóa các chủ trương lớn nêu trên, Bộ Tài chính đã thể hiện vai trò chủ lực trong việc tham mưu, đề xuất các chính sách thuế mang tính chiến lược. Thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế quan trọng như Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Quản lý thuế... Bộ Tài chính từng bước thiết kế hệ thống chính sách thuế theo hướng hỗ trợ sản xuất – kinh doanh, giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đồng thời, Bộ Tài chính cũng tích cực phối hợp với các bộ, ngành và địa phương trong quá trình lấy ý kiến xây dựng chính sách, đảm bảo tính khả thi và sát thực tiễn. Nhiều gói hỗ trợ thuế, phí với quy mô hàng trăm nghìn tỷ đồng đã được triển khai trong các năm gần đây, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn do dịch bệnh và phục hồi sản xuất, điển hình như miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn thời gian nộp thuế, phí, lệ phí...
Bộ Tài chính cũng là đầu mối triển khai cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, ứng dụng công nghệ số trong quản lý thu – nộp thuế, xây dựng hệ thống thuế điện tử, hóa đơn điện tử nhằm giảm chi phí tuân thủ và nâng cao tính minh bạch cho doanh nghiệp.
Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục hoàn thiện các thể chế, chính sách thuế với nhiều nội dung quan trọng: Từng bước cơ cấu lại nguồn thu theo hướng bền vững, mở rộng cơ sở thuế, thu hút đầu tư chất lượng cao, thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế xanh thông qua công cụ thuế.
Chính sách thuế trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục đóng vai trò "chìa khóa" để Nhà nước điều tiết vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển đúng định hướng và phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.