Đối ngoại Việt Nam: Lời hiệu triệu từ trái tim
Những ngày qua, khí thế lời hiệu triệu của Đảng, Nhà nước về việc chung sức, đồng lòng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đã lan tỏa khắp mọi miền Tổ quốc. Đáp lại 'từ trái tim', ngành đối ngoại, ngoại giao luôn trăn trở để có được 'phiên bản' tốt hơn, cao hơn, đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp chung mà Việt Nam đang vươn tới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao tháng 8/2024. (Ảnh: Nguyễn Hồng)
Tám thập kỷ đồng hành cùng dân tộc, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam không ngừng trưởng thành, vượt qua muôn trùng thử thách, vươn tới những đỉnh cao vinh quang. Bước vào kỷ nguyên mới, Đảng, Nhà nước đặt trọn niềm tin và kỳ vọng vào sứ mệnh lớn lao phía trước. Dẫu còn nhiều gian nan, nhưng vinh quang rực rỡ đang chờ đón.
Trong thời đại mới, đối ngoại, ngoại giao không chỉ góp phần bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc, mà còn khẳng định vị thế xứng tầm của Việt Nam trên bản đồ chính trị thế giới, trong nền kinh tế toàn cầu và dòng chảy văn minh nhân loại. Đó là con đường đưa dân tộc Việt Nam vươn tới đài vinh quang, sánh vai các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu hằng mong đợi.
Thời cơ và giai đoạn chiến lược
Trong Tọa đàm “Hướng tới kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao” được tổ chức gần đây tại Học viện Ngoại giao, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên chia sẻ: “Trải qua nhiều cương vị trong Ngành, tôi chưa từng dám mơ rằng đất nước, quan hệ đối ngoại và vị thế của Việt Nam lại phát triển như hôm nay. Nếu có một điều ước, tôi chỉ mong được trẻ lại 40 năm để làm một cán bộ ngoại giao trong giai đoạn đầy ý nghĩa này”.
Như vậy đủ để thấy rằng đối ngoại, ngoại giao đang ở giai đoạn chiến lược và có trong tay thời cơ chiến lược, hoàn toàn có cơ sở để vun vén những ước vọng lớn lao hơn, góp phần hiện thực hóa những khát vọng của cả dân tộc.
Trao đổi với Báo Thế giới và Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Phạm Quang Vinh và Quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn đã phân tích kỹ góc nhìn về những thời cơ chiến lược đó của đất nước và của Ngành. Thế giới đang bước vào giai đoạn chuyển mình mang tính thời đại, đối mặt với những “khúc quanh” dẫn con người đến những chân trời tương lai khó lường, đầy thách thức. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ mở ra nhiều cơ hội, nếu biết nắm bắt và làm chủ, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển mạnh mẽ và bứt phá.
Cụ thể, Đại sứ Phạm Quang Vinh cho rằng, thứ nhất, kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việt Nam cần tranh thủ sự phát triển của khoa học công nghệ để đưa đất nước phát triển cao hơn, bứt phá nhanh hơn. Thứ hai, sau 40 năm đổi mới, Việt Nam có nền tảng vững chắc cả về chính trị và năng lực kinh tế. Đà đã có, nhưng với những mục tiêu mới, kỳ vọng mới, bộ máy và năng lực nền kinh tế buộc phải điều chỉnh để bắt kịp. Thứ ba, Việt Nam có quan hệ với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, đặc biệt là 10 Đối tác chiến lược toàn diện, có quan hệ chặt chẽ với các trung tâm kinh tế lớn, các đối tác lớn trong khu vực và trên thế giới. Đây là nền tảng vững chắc để Việt Nam, trong mọi hoàn cảnh, vẫn có thể kết nối và đan xen lợi ích với các nước, phục vụ hiệu quả mục tiêu phát triển.
Đồng tình với những phân tích của Đại sứ Phạm Quang Vinh, Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn phác họa cục diện khu vực mà ở đó Việt Nam là một điểm sáng, là tâm điểm của tâm điểm. Theo Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn, trọng tâm thế giới đang dịch chuyển về châu Á, trong đó Đông Nam Á thu hút sự chú ý nhờ vai trò là giao điểm kết nối. Việt Nam, với vị thế nổi bật trong khu vực, được đánh giá là đang đi đúng hướng.
Bắt kịp nhận thức, lan tỏa phiên bản “nâng cao”
Tổng Bí thư Tô Lâm từng nhấn mạnh phải đổi mới mạnh mẽ tư duy trên nhiều lĩnh vực. Đối với đối ngoại, ngoại giao, điều này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh mới hiện nay.
Vậy đổi mới từ đâu và như thế nào? Theo Đại sứ Phạm Quang Vinh, trước hết, đối ngoại và ngoại giao cần bắt kịp về nhận thức và tầm nhìn với những chuyển động trong lòng đất nước, với tầm nhìn mới khi đi vào kỷ nguyên mới. “Cần hiểu rõ, chúng ta không thể làm theo cách cũ, mà phải có cách tiếp cận mới để phát triển bứt phá, vừa bền vững, vừa chất lượng cao”, Đại sứ nhấn mạnh.
Vẫn là câu chuyện tranh thủ bên ngoài để phát triển đất nước nhưng là tranh thủ ở chất lượng cao hơn, thay vì đại trà như trước. Nhà ngoại giao kỳ cựu trăn trở đối ngoại và ngoại giao có thể giúp Việt Nam “chào hàng” những gì dựa trên nội lực ngày càng vững vàng, kết hợp với mối quan hệ quốc tế sôi động, trên cơ sở lợi ích đan xen và cùng có lợi.
Đại sứ Phạm Quang Vinh cho rằng cách tiếp cận và tầm nhìn về quan hệ quốc tế của Việt Nam cần tương xứng với vị thế mới của Việt Nam. Việt Nam chủ động tác động vào quan hệ quốc tế để khai thác điểm lợi cho mình nhưng cũng đóng góp vào nền chính trị, kinh tế và các giá trị toàn cầu như kiến tạo luật chơi, xây dựng khung chính sách và hành động.
Đặc biệt, đối ngoại và ngoại giao cần nỗ lực hơn nữa để lan tỏa “phiên bản Việt Nam nâng cao” sau 40 năm đổi mới với những thành tựu đáng ngưỡng mộ và tự hào. Phiên bản đó, trong phân tích của Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn là một Việt Nam đóng góp tích cực hơn nữa vào nền chính trị, kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại; hiện diện nhiều hơn ở các diễn đàn thế giới, đặc biệt là diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế; có các biện pháp cụ thể để củng cố cho các nguyên tắc nền tảng của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tham gia định hình các xu thế phát triển mới, xử lý các thách thức chung…
Chia sẻ tại tọa đàm, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã nhấn mạnh câu chuyện về đổi mới tư duy luôn là thách thức lớn nhất trước những bước ngoặt quan trọng. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của đất nước và của Ngành đã chứng minh rằng, với quyết tâm đủ lớn và con đường đi đúng đắn, mọi nút thắt đều có thể được tháo gỡ.
Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, đất nước ta đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Trong thời gian tới, công tác đối ngoại cần chủ động, kịp thời phát hiện cơ hội, thách thức, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước; nâng tầm, mở rộng đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại, lan tỏa mạnh mẽ “phiên bản Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển, phồn vinh, hạnh phúc”; xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên. Tổng Bí thư , Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại buổi làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao tháng 8/2024
Tâm hồn rộng mở, thước đo tầm cao
Nếu như “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” thì đâu sẽ là hải đăng soi đường cho đối ngoại và ngoại giao Việt Nam tiến về phía trước, tự tin với sứ mệnh mới, chinh phục những đỉnh vinh quang?
Nhiều “cây đa, cây đề” trong Ngành, trong đó có cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan hay nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên cho rằng đó chính là văn hóa và truyền thống ngoại giao Việt Nam, được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, được vận dụng nhuần nhuyễn trong công cuộc cách mạng, đóng góp quan trọng vào những thành tựu to lớn của đất nước trong suốt tám thập kỷ qua.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, được nguyên Bộ trưởng Nguyễn Duy Niên gói gọn trong ba chữ “nhân - trí - dũng”, cho đến nay vẫn là kho tàng nghệ thuật ngoại giao quý báu, hành trang quan trọng của lớp lớp thế hệ làm công tác đối ngoại, ngoại giao. Hay như bốn đặc sắc văn hóa ngoại giao được cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan chắt lọc: “kiên định trong mục tiêu, nhân văn trong cốt cách, mở rộng trong tâm hồn, linh hoạt trong hành động”, đã trở thành “công thức” tư duy gối đầu giường của biết bao cán bộ “mang chuông đi đánh xứ người”.
Truyền thống đối ngoại, ngoại giao nhân văn của Việt Nam, với tinh thần rộng mở và chân thành, đã chinh phục trái tim nhiều bạn bè quốc tế.
Minh chứng là, khi tìm hiểu về quan hệ Việt Nam - Indonesia, tôi xem lại phóng sự về chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Sukarno tới Việt Nam vào tháng 6/1959. Trước lúc chia tay, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tặng ông những vần thơ đầy lưu luyến: “Nhớ nhung trong lúc chia tay/Tấm lòng lưu luyến cùng bay theo người/Người về Tổ quốc xa khơi/Chúc người thắng lợi, chúc người bình an”.
Sáu thập kỷ sau, tinh thần ấy vẫn lan tỏa. Tại Diễn đàn Tương lai ASEAN 2025, khi Tổng thống Timor Leste Jose Ramos Horta ví con đường gia nhập ASEAN là “khó hơn lên thiên đường”, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chân thành chia sẻ: “Việt Nam và các nước ủng hộ Timor Leste sớm trở thành thành viên ASEAN”. Ngay lập tức, Tổng thống Jose Ramos Horta bắt chặt tay Thủ tướng cho thấy sự cảm kích sâu sắc.
Từ quá khứ đến hiện tại, ngoại giao Việt Nam vẫn luôn mang đậm dấu ấn nhân văn, khẳng định vai trò là cầu nối của tình hữu nghị và hợp tác quốc tế.
Không có thước đo tuyệt đối nào để định lượng tầm cao của đối ngoại, ngoại giao Việt Nam – cả trên chặng đường đã qua lẫn trong kỷ nguyên mới mà chúng ta đang hướng tới. Nhưng như Đại sứ Phạm Quang Vinh từng tâm niệm: Hãy cứ đi, dám nghĩ, dám làm, rồi sẽ đến một ngày, hành trình ấy sẽ được ghi dấu bằng những mốc son chói lọi. Kỷ nguyên mới đang đến, báo hiệu một hành trình mới cũng chính thức bắt đầu!
Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/doi-ngoai-viet-nam-loi-hieu-trieu-tu-trai-tim-306555.html