Đối tác chiến lược toàn diện, vốn đầu tư nước ngoài và những thách thức
Việc nâng cấp quan hệ với các nước lớn không chỉ giúp Việt Nam tăng cường vị thế chính trị và ngoại giao trên toàn cầu, mà còn trở thành địa chỉ hấp dẫn, thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ những cường quốc kinh tế này cũng như của các nước muốn tận dụng những lợi thế địa chính trị của Việt Nam.
Nâng cấp quan hệ đối tác
Việt Nam và Úc đã ra Tuyên bố chung về việc nâng mối quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện từ ngày 7-3-2024, nhân chuyến thăm chính thức Úc của Thủ tướng Phạm Minh Chính theo lời mời của Thủ tướng Úc Anthony Albanese. Như vậy, chỉ trong vòng chưa đến nửa năm qua, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với ba cường quốc lớn, gồm Mỹ, Nhật Bản và Úc.
Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với 14 quốc gia, đối tác chiến lược với 16 quốc gia, nhưng chỉ nâng cấp mối quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với bảy quốc gia và trong đó đều là những cường quốc, gồm: Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (2023), Nhật Bản (2023) và mới đây là Úc (2024). Một số dự báo cho rằng trong năm 2024 này, Việt Nam có thể nâng mối quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với hai quốc gia Đông Nam Á là Singapore và Indonesia.
Điểm đáng chú ý là cả bảy quốc gia mà Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất đều có vị thế địa chính trị quan trọng trong khu vực Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, vốn được đánh giá là khu vực có vai trò quan trọng trong việc định hình trật tự thế giới thế kỷ 21, khi đã, đang là điểm đến và triển khai chiến lược của nhiều nước, nhất là đối với các nước lớn.
Nếu như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc thuộc nhóm Bộ tứ kim cương (QUAD), Nga và Trung Quốc đang ngày càng gắn kết chặt chẽ và nằm trong trục địa lý Bắc Nam cùng với Việt Nam về phía Tây Thái Bình Dương, Hàn Quốc đã nổi lên là quốc gia đầu tư hàng đầu vào Việt Nam trong những năm qua.
Rõ ràng việc nâng cấp quan hệ với các nước lớn không chỉ giúp Việt Nam tăng cường vị thế chính trị và ngoại giao trên toàn cầu, mà còn trở thành địa chỉ hấp dẫn, thu hút dòng vốn FDI từ những cường quốc kinh tế này cũng như của các nước ngoài muốn tận dụng những lợi thế địa chính trị của Việt Nam, mối quan hệ với các nước lớn và hàng loạt hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết trong thời gian qua.
Thu hút đầu tư
Cụ thể, sau khi thu hút 36,6 tỉ đô la Mỹ vốn FDI trong năm 2023, tăng hơn 32% so với năm 2022 và là mức cao thứ 3 trong 15 năm gần đây thì hai tháng đầu năm nay, Việt Nam tiếp tục đón nhận 4,29 tỉ đô la vốn FDI đăng ký, tăng mạnh 38,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, lượng vốn FDI giải ngân sau khi đạt kỷ lục với 23,18 tỉ đô la trong năm 2023, hai tháng đầu năm nay ghi nhận đạt 2,8 tỉ đô la, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước và là số vốn FDI thực hiện cao nhất của hai tháng trong năm năm qua.
Đáng lưu ý, xu hướng tích cực này diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu kể từ đầu năm nay, cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục lựa chọn Việt Nam như là điểm đến hấp dẫn và tiềm năng.
Nhưng bên cạnh việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam đang nghiên cứu, xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư bổ sung ngoài thuế để bù đắp phần nào chi phí thuế tăng lên đối với các nhà đầu tư chịu sự điều chỉnh của chính sách này.
Với việc mới nâng cấp mối quan hệ với Úc, giới phân tích kỳ vọng sẽ giúp thúc đẩy hợp tác giữa hai nước sâu rộng, thực chất, hiệu quả trên các lĩnh vực, như chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, tài nguyên, bao gồm các chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, thương mại đầu tư, nông nghiệp, quốc phòng, giáo dục, đào tạo…
Trong chuyến thăm vừa qua của Thủ tướng Phạm Minh Chính, đoàn công tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã làm việc với một số đối tác, doanh nghiệp để thúc đẩy đầu tư giữa Việt Nam – Úc, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, hiện các doanh nghiệp Úc đã đầu tư vào Việt Nam 631 dự án, với tổng vốn đăng ký 2,04 tỉ đô la, trong đó tập trung vào 18 ngành, lĩnh vực tại Việt Nam. Dẫn đầu là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 133 dự án, tổng vốn đăng ký 954,7 triệu đô la. Dịch vụ lưu trú và ăn uống đứng thứ 2 với 31 dự án, tổng vốn đăng ký 154,32 triệu đô la. Xếp thứ 3 là lĩnh vực nông-lâm nghiệp và thủy sản với 25 dự án, tổng vốn đăng ký 120,04 triệu đô la.
Hóa giải thách thức
Tuy nhiên, việc có tận dụng hiệu quả các cơ hội từ vị thế đang lên hay không đối với Việt Nam không phải là một vấn đề đơn giản, khi việc thu hút vốn FDI vẫn đang gặp một số thách thức và chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế cũng như từ đánh giá của các tổ chức quốc tế, các vấn đề này gồm chất lượng nguồn nhân lực với năng suất thấp, cơ sở hạ tầng còn nhiều điểm nghẽn, các thủ tục đầu tư, pháp lý dù đã được cải thiện gần đây nhưng vẫn còn nhiêu khê và phức tạp.
Trong khi đang có nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các chính sách đào tạo, cải thiện năng suất lao động, Việt Nam còn đối mặt với một thách thức khác là tốc độ già hóa dân số và chi phí lao động tăng nhanh, mà có thể gây cản trở cho việc thu hút vốn FDI trong tương lai. Đây cũng là thách thức nhiều quốc gia khác đang phải đối mặt.
Với điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng, Việt Nam đang ra sức tăng cường đầu tư trong những năm gần đây. Trong năm 2023, vốn thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 625.300 tỉ đồng, bằng 85,3% kế hoạch năm và tăng 21,2% so với năm trước. Còn hai tháng đầu năm nay, con số này ước đạt hơn 59.800 tỉ đồng, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Được biết trong năm nay, tổng kế hoạch vốn đầu tư công gần 660.000 tỉ đồng.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bên cạnh các chính sách ưu đãi về thuế, phí, chính phủ các nước còn đang thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhằm thu hút vốn FDI, trong đó chủ yếu là các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, xóa bỏ hạn chế đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh vực nhạy cảm hoặc cải cách thủ tục hành chính. Điều này cũng là thách thức với Việt Nam. Hiện điểm số về môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn thấp hơn so các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan hay Indonesia.