Đòn bẩy và điểm nghẽn của nông nghiệp hiện đại
Bên cạnh một số mô hình sản xuất nông nghiệp đã chủ động ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, không ít thành quả nghiên cứu vẫn 'nằm im' trong phòng thí nghiệm vì thiếu cơ chế chuyển giao, chia sẻ rủi ro và hành lang pháp lý phù hợp.

Nông dân Mộc Châu (Sơn La) tiếp cận công nghệ cao trong khuôn khổ Dự án "Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai".
đang trở thành đòn bẩy giúp nông nghiệp Việt Nam nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh, đồng thời trao cho nông dân vai trò chủ thể tri thức. Tuy nhiên, bên cạnh một số mô hình sản xuất đã chủ động ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, không ít thành quả nghiên cứu vẫn “nằm im” trong phòng thí nghiệm vì thiếu cơ chế chuyển giao, chia sẻ rủi ro và hành lang pháp lý phù hợp. Công nghệ sẽ không thể phát huy giá trị nếu những điểm nghẽn về thể chế, tài chính và liên kết không được kịp thời tháo gỡ.
Bài 1: Làm chủ đồng ruộng bằng công nghệ
Ứng dụng công nghệ cao đang tạo nên những bước nhảy vọt cho nông nghiệp Việt Nam, từ tăng trưởng GRDP ấn tượng đến việc hình thành lớp nông dân mới có cả kỹ năng quản lý, kinh doanh, tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, sự phát triển này sẽ không bền vững nếu người nông dân chỉ đóng vai trò “vận hành thụ động” thay vì làm chủ tri thức và chuỗi giá trị.
Giải bài toán xã hội trước khi tối ưu lợi nhuận
Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp tạo ra những đột phá, mang lại diện mạo mới cho ngành nông nghiệp. Hiện, công nghệ IoT, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và robot đang được triển khai để tối ưu hóa mọi khâu từ gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch và phân phối... giúp nông dân quản lý mùa vụ hiệu quả hơn, giảm thiểu rủi ro và tăng thu nhập.
Dự án “Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai” tại Mộc Châu là một minh chứng rõ ràng cho việc ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp.
Dự án do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Viện Nghiên cứu Rau quả (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) hợp tác triển khai, cùng với sự tham gia tích cực của Công ty cổ phần Hachi trong việc thiết kế và triển khai hệ thống nhà màng thông minh.
Dự án đã hỗ trợ cải tạo và nâng cấp hơn 35.000m² nhà màng tại Mộc Châu, giúp 34 hộ gia đình nông dân tiếp cận với công nghệ nông nghiệp hiện đại, làm thay đổi đời sống của người dân.
Anh Vũ Văn Hiệu, ngụ huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, một nông dân trẻ từng gặp khó khăn do thời tiết thất thường và biến động thị trường. Tham gia dự án hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, anh đầu tư xây dựng nhà màng thông minh rộng 1.836m², trồng ớt chuông và ớt Palermo.
Vụ đầu tiên, gia đình anh thu được 18 tấn sản phẩm, mang lại lợi nhuận khoảng 500 triệu đồng chỉ sau 3 tháng. Từ thành công ban đầu, anh Hiệu mở rộng diện tích và thành lập Hợp tác xã Công nghệ cao Tân Lập, quy tụ 8 hộ cùng sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Kết quả đó cho thấy công nghệ cao đang tạo ra chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, từ cách làm đến tư duy liên kết, tạo nền tảng cho một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại.
Tại Thanh Hóa, Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn cùng nông dân huyện Thọ Xuân đang trở thành một trong những điểm sáng trong việc chủ động ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Với vùng nguyên liệu khoảng 9.500ha, từ năm 2022, công ty phối hợp các đơn vị nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đưa vào vận hành hệ thống “mắt thông minh” (Smart Eye) - một giải pháp tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), máy bay không người lái (drone) và internet vạn vật (IoT). Hệ thống này giúp theo dõi độ ẩm đất, quản lý tưới tiêu, dinh dưỡng và phát hiện sớm sâu bệnh trên từng thửa ruộng.
Cùng với đó, công ty còn ứng dụng hệ thống bản đồ quản lý vùng nguyên liệu GIS kết hợp AI để phân tích quy trình canh tác và đưa ra cảnh báo sớm về thời tiết cho từng khu vực trồng mía.
Cán bộ kỹ thuật không cần trực tiếp ra đồng vẫn có thể theo dõi sát sao tình hình thu hoạch, vận chuyển và sinh trưởng của mía trên toàn vùng nguyên liệu. Nhờ sự vào cuộc bài bản, sản lượng và chất lượng mía nguyên liệu đã tăng đáng kể. Năm 2024, sản lượng đạt 563.000 tấn, chất lượng mía tăng từ 10-15%.
Tính đến tháng 4/2025, sản lượng tiếp tục tăng lên 660.000 tấn. Doanh nghiệp đặt mục tiêu đến năm 2026 sẽ mở rộng diện tích trồng mía lên 10.000 ha, với sản lượng ước đạt 750.000-800.000 tấn.
Ông Lê Bá Chiều, Phó Tổng Giám đốc phụ trách nguyên liệu Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn cho biết: Trước đây, nhờ ứng dụng khoa học, công nghệ quy mô vùng trồng mía được mở rộng, cho năng suất cao khiến thu nhập người nông dân tăng lên; trung bình 1 hộ có thể thầu 5-10ha, doanh thu đạt đến hơn 1 tỷ đồng/năm.
Công ty đã ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ, từ máy trồng mía, máy làm đất cho đến máy chăm sóc bón phân, phun thuốc trừ sâu bằng máy bay không người lái rồi đến máy thu hoạch.
Hiện, công ty có 9 máy thu hoạch, với giá trị đầu tư 10 tỷ đồng/máy; giúp thu hoạch bình quân khoảng 250-300 tấn mía/ngày tương đương 200 lao động làm một ngày.
Ông Đào Văn Đường (Thôn 3, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân), người đã gắn bó với cây mía gần 30 năm chia sẻ, nhờ có sự hỗ trợ từ doanh nghiệp như cho vay không lãi suất, hướng dẫn kỹ thuật, cơ giới hóa đồng bộ, ông đã mạnh dạn tích tụ ruộng đất, mở rộng thêm 14 ha mía. Sau khi trừ chi phí, mỗi năm, gia đình ông thu về khoảng 500 triệu đồng.
Tại Lâm Đồng, mô hình trồng rau thủy canh tuần hoàn trong nhà màng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Nông sản Phong Thúy (huyện Đức Trọng) đã được nhân rộng ở nhiều trang trại trong vùng.
Với hơn 100ha canh tác, trong đó 30ha ứng dụng công nghệ cao, mô hình này giúp doanh nghiệp và nông dân tiết kiệm đáng kể nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch từ 30% xuống dưới 10%, rút ngắn chu kỳ sản xuất từ 20 ngày đến 1 tháng; rau gần như không cần dùng thuốc bảo vệ thực vật hóa học.
Có thể thấy, thay vì cạnh tranh gay gắt về giá cả hay chất lượng sản phẩm như logic thị trường thông thường, mô hình công nghệ cao đang đi theo hướng lấy người dân làm trung tâm, giải bài toán xã hội trước khi tối ưu lợi nhuận.
Để người nông dân làm chủ chuỗi giá trị
Bên cạnh những mô hình đổi mới sáng tạo với người nông dân được giữ vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị, vẫn còn nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao đang dần bỏ họ lại phía sau.
Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Phạm Đức Nghiệm cho biết, thực tế nhiều dự án nông nghiệp thông minh đang phát triển theo hướng “đóng kín”, chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn.
Các công ty đầu tư hệ thống nhà kính, nhà màng, tự động hóa từ gieo trồng đến thu hoạch, mà không cần tới sự tham gia của người nông dân. Những mô hình này thường có chi phí đầu tư rất cao, đòi hỏi trình độ quản lý hiện đại, trong khi đại đa số nông dân không thể tiếp cận về cả tài chính lẫn kỹ thuật, khiến họ đứng ngoài cuộc.
Điều này đi ngược với tinh thần của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vốn coi người nông dân là trung tâm, khiến cho nông nghiệp công nghệ cao sẽ khó lan tỏa và bền vững.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nhận định quá trình chuyển đổi khiến nông dân trở thành người “vận hành thụ động”, không làm chủ tri thức hay giá trị gia tăng, sẽ dẫn đến khoảng cách xã hội và phát triển không bền vững.
Người nông dân cần trở thành trung tâm của quá trình chuyển đổi. Muốn vậy, cần nâng họ trở thành chủ thể tri thức, không chỉ học kỹ thuật mà phải được đào tạo về công nghệ số, thị trường, quản lý kinh tế nông trại.
Cần thiết kế các chương trình đào tạo thực hành tại chỗ, có sự tham gia của nhà khoa học và doanh nghiệp. Các mô hình công nghệ cao cũng cần tạo cơ chế hợp tác công bằng, trong đó nông dân góp đất, góp công, cùng vận hành và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp. Hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác sản xuất ứng dụng công nghệ nên được ưu tiên tiếp cận đất đai, tín dụng và kỹ thuật.
Bên cạnh đó, hệ thống chuyển giao khoa học, công nghệ phải thân thiện và phù hợp với thực tiễn nông hộ nhỏ, thông qua các trạm dịch vụ nông nghiệp cấp xã, huyện. “Nông dân không thể chỉ làm thuê cho công nghệ. Họ phải là người đồng kiến tạo và hưởng lợi bền vững. Khi người nông dân thật sự làm chủ, chuyển đổi số mới có thể lan tỏa sâu rộng”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh.
(Còn nữa)
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/don-bay-va-diem-nghen-cua-nong-nghiep-hien-dai-post888669.html