Đống Đa, Hà Nội: Cơ quan điều tra cần làm rõ chứng cứ buộc tội theo yêu cầu của Tòa án
Công lý và Xã hội có bài 'Cơ quan công an không làm rõ được nội dung vụ án theo yêu cầu của Tòa án', trong trường hợp không làm rõ như vậy sẽ ảnh hưởng như thế nào tới chứng cứ buộc tội đối với các bị cáo?
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trong trường hợp Tòa án nhận thấy những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ để kết luận có hành vi phạm tội diễn ra, chưa thể xác định được chủ thể thực hiện hành vi phạm tội mà không thể làm rõ những nội dung này tại phiên tòa thì Tòa án sẽ trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để điều tra bổ sung.
Ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân quận Đống Đa căn cứ vào yêu cầu của Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Phương Trinh ra Quyết định số 22/HSST-QĐ về việc trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát nhân dân quận Đống Đa để điều tra làm rõ một số nội dung liên quan đến việc xét xử của vụ án.
Cụ thể, Tòa án yêu cầu làm rõ danh tính của người có tên là “Chôm” (người đã bán ma túy cho các bị cáo) và thông tin của cá nhân đã trả tiền mua ma túy, đồng thời lấy lời khai của đối tượng “Chôm” bổ sung vào hồ sơ vụ án, từ đó xử lý trách nhiệm hình sự đối với “Chôm” về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, đồng thời xác định hành vi mà bị cáo Trinh đã thực hiện xem có đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy hay không.
Hồ sơ vụ án xác định, bị cáo Đỗ Hoàng Long là người gọi điện cho đối tượng tên là “Chôm” để mua ma túy. “Chôm” là người bán ma túy, đã mang ma túy đến tận nhà cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, hồ sơ chưa kết luận ai là người nhận ma túy từ tay “Chôm”? Ai trả tiền ma túy cho “Chôm”? Trước đó, ai là người chỉ đạo bị cáo Long gọi điện mua ma túy?
Theo lời khai của bị cáo Trinh, bị cáo Nguyễn Quang Minh là người hỏi vay tiền của Trinh, tại thời điểm cho vay, Trinh không rõ Minh sử dụng tiền vào mục đích gì; Trinh cũng không sử dụng ma túy trong đêm xảy ra vụ án. Do không biết Minh dùng tiền vay được để đem đi mua ma túy nên hành vi của Trinh được xem là không thỏa mãn yếu tố về lỗi trong mặt chủ quan cấu thành tội phạm.
Theo lời khai của bị cáo Long trước Cơ quan điều tra, Long là người gọi điện cho “Chôm” để mua ma túy. Long không biết việc Minh và Trinh góp tiền như thế nào, ai là người giao tiền cho đối tượng “Chôm”. Do đó, Việc truy tố Trinh với tội danh tàng trữ trái phép chất ma túy là không có cơ sở.
Theo Luật sư Trần Hữu Năng, Văn phòng luật sư Đức Năng, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội: “Trong quá trình điều tra bổ sung, Công an quận Đống Đa không thể xác định danh tính của người bán ma túy cho các bị cáo, do đó không thể triệu tập lấy lời khai để làm rõ sự thật khách quan của vụ án nên chỉ căn cứ vào lời khai là chứng cứ duy nhất để buộc tội bị cáo Trinh là không thỏa đáng và không đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, trường hợp vụ án có nhiều điểm không thể làm sáng tỏ được, thì phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội, Hội đồng xét xử cần áp dụng những tình tiết có lợi cho bị cáo Trinh để tuyên án”.
Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ hai, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải làm rõ đối tượng nào chỉ đạo việc mua thêm ma túy, dẫn đến việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Đối tượng nào nhận ma túy từ tay “Chôm” và thanh toán tiền cho “Chôm”, như vậy mới có cơ sở để xác định vai trò và hình phạt đối với các bị cáo Minh và Long và là tình tiết đặc biệt quan trọng đối với bị cáo Trinh.
Qua 2 lần điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đống Đa đã không thu tập được chứng cứ nhằm chứng minh hành vi phạm tội đối với bị cáo Trần Phương Trinh. Hậu quả của điều đó có thể dẫn tới làm oan người vô tội. Ngoài ra, Luật sư Năng còn khẳng định: “Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đống Đa còn có dấu hiệu ngụy tạo chứng cứ và bỏ lọt tội phạm.”
Có hay không việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đống Đa ngụy tạo chứng cứ và bỏ lọt tội phạm? Tòa án nhân dân quận Đống Đa sẽ giải quyết vụ án trên như thế nào, có ra được một bản án đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật hay không còn tùy thuộc vào việc cơ quan CSĐT có làm rõ được các nội dung như tòa đã yêu cầu.