Đồng Tháp Mười - Gần 50 năm đổi mới: 'Tiến quân' về Đồng Tháp Mười - Đúng đắn và táo bạo (Bài 2)
Đồng Tháp Mười là vùng đất ngập nước của Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích khoảng 690.000ha. Trong đó, Long An chiếm hơn một nửa diện tích. Đây từng là vùng đất nhiễm phèn nặng, được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là không thể cải tạo. Sau gần 50 năm, với những quyết sách đúng đắn và táo bạo của Trung ương lẫn địa phương, vùng đất hoang hóa năm nào đã 'thay da, đổi thịt'.
Bài 2: "Tiến quân" về Đồng Tháp Mười - Đúng đắn và táo bạo
Sau chiến tranh, Đồng Tháp Mười (ĐTM) là vùng trũng, phèn, bom cày đạn xới, vốn được đánh giá là “không làm gì được”. Chính sách cải tạo vùng ĐTM được Trung ương khởi xướng. Đảng bộ tỉnh cũng đánh giá, ĐTM là vùng đất có nhiều tiềm năng và quyết tâm khai thác, đưa cây lúa, cây tràm trở thành cây trồng chủ lực.
“Rửa phèn bằng tay”
Sinh ra và lớn lên ở vùng ĐTM, ông Lâm Văn Ra (ấp Hưng Trung, xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) là nhân chứng cho những đổi thay đến mức khó tin của vùng đất này. Ông Ra kể: “Hồi đó vừa phèn, vừa lũ lụt nên mỗi năm làm được 1 vụ lúa, năng suất khoảng 2 tấn/ha. Nhà nước có chính sách khuyến khích khai hoang, tổ chức đào thêm kênh, rạch để rửa phèn mà hầu hết đào bằng tay vì chưa có máy móc”.
Sau ngày giải phóng, việc nạo vét, đào kênh được đặc biệt chú trọng và thực hiện theo phương châm "Nhà nước, Nhân dân cùng làm" (chủ yếu dựa vào việc góp công lao động). Kênh Măng Đa - Cái Môn là minh chứng cụ thể cho sự phi thường của sức người ở ĐTM.
Ông Ra nhớ lại, khi kênh Măng Đa - Cái Môn được đào, ông ngoài 20 tuổi. Theo động viên của chính quyền, ông cùng các thanh niên địa phương tham gia đào kênh. Những thanh niên “ăn dầm nằm dề” tại công trình thủy lợi mang nước ngọt về với ruộng đồng.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Thanh Truyền cho biết: “Bên cạnh kênh Hồng Ngự, kênh Măng Đa - Cái Môn là tuyến kênh đóng vai trò quan trọng trong việc “rửa phèn” cho ĐTM.
Tuyến kênh này được đào khá sớm, bằng chính sức dân thời điểm đó”. Theo thống kê, từ năm 1975-1987, số kênh được đào mới, nạo vét phục vụ giao thông, thủy lợi trong tỉnh có tổng chiều dài khoảng 541,2km và một phần không nhỏ được đào đắp bằng tay.
Kênh Hồng Ngự còn gọi là kênh Trung Ương nối từ sông Tiền (huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) với sông Vàm Cỏ Tây (ở thượng nguồn huyện Vĩnh Hưng) có chiều dài hơn 40km. Đây là con kênh có quy mô nhất ở vùng ĐTM, hàng năm đưa một khối lượng lớn nước ngọt của sông Tiền cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy sản của các huyện: Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh.
(Địa chí Long An)
Với sự đầu tư của Trung ương, năm 1985, kênh Hồng Ngự từng bước định hình, đưa nước sông Tiền chảy về Long An góp phần rửa phèn, đẩy lùi nước mặn, tạo thuận lợi cho trồng trọt. Đưa chúng tôi ra trước nhà, ông Ra kể: “Khi tôi dời nhà về đây thì vùng này còn hoang hóa lắm. Nhà tôi trước ở ngay chỗ mép kênh Hồng Ngự bây giờ. Khi Nhà nước có chủ trương đào kênh thì gia đình mới lùi nhà về sau.
Nhờ có con kênh Hồng Ngự mà nước ngọt được đưa về, chúng tôi xẻ kênh nhỏ dẫn vào trong ruộng. Chuyện sản xuất dễ dàng hơn, năng suất tăng dần. Nhờ vậy cuộc sống khá lên”. Đến nay, ông Ra có 20ha đất trồng lúa tại Hưng Thạnh. Ngoài 70 tuổi, ông giao quyền canh tác lại cho các con để thảnh thơi an dưỡng.
Chuyện về con đường “có 1 không 2”
Song song với phát triển thủy lợi, giao thông cũng là lĩnh vực được đặc biệt chú trọng trong hành trình “tiến quân” về ĐTM. Ngoài củng cố và nâng cấp hệ thống giao thông cũ, tỉnh còn tập trung xây dựng các tuyến đường mới phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng. Trong đó, nổi bật nhất là Đường tỉnh 49 (Quốc lộ 62 ngày nay) xuyên ĐTM. Công trình đó vốn được xem là niềm tự hào của Long An, là kết quả của quá trình lao động bền bỉ, kiên cường, dũng cảm của hàng vạn người dân trong tỉnh.
28 tuổi, lúc đó với vai trò Phó Bí thư Tỉnh Đoàn - bà Nguyễn Thị Bé (nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy) là người trực tiếp chỉ huy đội quân đắp Đường tỉnh 49 lúc bấy giờ. “Trực chiến” tại ĐTM trong khoảng 2 năm, bà Bé trực tiếp giao việc, giám sát, động viên cán bộ, công chức yên tâm lao động, góp sức mình đắp tuyến đường huyết mạch về ĐTM.
“Mỗi đơn vị nhận một quãng đường nhất định, hoàn thành thì được nghỉ. Các anh chị em làm việc rồi nghỉ ngơi trong lán trại ngay bên đường. Muỗi nhiều như trấu, nước sinh hoạt lấy từ kênh, rạch, lắng trong rồi dùng, đêm chỉ thắp đèn dầu, không dám đốt lửa vì sợ cháy lan ra rừng tràm. Khó khăn thì nhiều nhưng tinh thần anh chị em luôn lạc quan, cứ vài đêm là quây quần văn nghệ một lần. Giờ nhớ lại, tôi chỉ cảm thấy vui! Nhìn đường về ĐTM thông suốt, tôi tự hào vì có công sức anh em, đồng đội mình trong đó. Ước mong của tôi bây giờ là Quốc lộ 62 sớm được nâng cấp, mở rộng” - bà Bé nói.
Bằng chính sức người, tuyến đường huyết mạch tiến thẳng về ĐTM được Đảng bộ, chính quyền và người dân Long An bước đầu thành hình. Nền hạ đường đã có nhưng nguồn kinh phí tỉnh không thể nào “kham” nổi để đầu tư nâng cấp, trải nhựa tuyến đường. Năm 1996, Long An cử đoàn cán bộ ra Hà Nội xin chủ trương nâng Đường tỉnh 49 thành quốc lộ. Đoàn công tác ấy do Phó Chủ tịch UBND tỉnh - Trần Thị Sửa làm Trưởng đoàn.
“Tỉnh ủy thời điểm đó xác định, tuyến Đường tỉnh 49 không chỉ giải quyết vấn đề phát triển kinh tế vùng ĐTM mà còn đóng vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ biên giới. Việc đầu tư hoàn thành Đường tỉnh 49 là bắt buộc nhưng tỉnh còn nghèo, sức dân có hạn nên tỉnh chủ trương đề xuất Trung ương đầu tư hoàn thiện. Đoàn công tác chúng tôi lên đường với tâm thế đến khi nào hoàn thành nhiệm vụ mới trở về. 20 ngày sau khi đoàn về tới Long An thì nhận được quyết định chính thức về việc nâng Đường tỉnh 49 trở thành quốc lộ và đặt tên là Quốc lộ 62” - nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh - Trần Thị Sửa kể.
Năm 1997, tuyến đường được Trung ương đầu tư hoàn thiện, mở ra một giai đoạn mới trong việc khai thác vùng bưng biền những tưởng không thể nào thay đổi. Từ đó, người dân từ Tân An về ĐTM không cần phải đi vòng qua tỉnh Tiền Giang hoặc mất hơn 1 ngày tàu như trước nữa.
Thành tựu hôm nay
Từ những quyết sách táo bạo và đúng đắn về giao thông, thủy lợi, vùng ĐTM ngày càng phát triển. Từ vùng đất hoang vu với cỏ, năn, bàng, giờ đây, ĐTM là ruộng lúa mênh mông "cò bay thẳng cánh". Năng suất lúa tăng từ 5 tấn/ha/năm lên khoảng 14 tấn/ha/năm.
Từ năm 2015, tỉnh triển khai Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong đó, chỉ tiêu đề ra đến năm 2025, toàn tỉnh có 60.000ha lúa ƯDCNC, tập trung ở ĐTM.
Thông qua các lớp tập huấn, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, nông dân tham gia chương trình từng bước ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất, giảm giống, giảm phân vô cơ, giảm chi phí đầu tư, nâng cao năng suất và lợi nhuận. Thấy được hiệu quả từ chương trình, nông dân ngày càng đồng thuận, diện tích lúa ƯDCNC dần mở rộng. Tính đến tháng 4-2024, toàn tỉnh có hơn 56.000ha lúa ƯDCNC, đạt 93,6% kế hoạch giai đoạn 2016-2025.
Sau 2 năm tham gia sản xuất lúa ƯDCNC, ông Nguyễn Văn Tám (xã Tân Hòa, huyện Tân Thạnh) rút ra kinh nghiệm: “Nông dân bây giờ không còn chân lấm, tay bùn nữa!”. Quy trình mới không chỉ giúp ông giảm chi phí đầu tư mà còn tăng năng suất. Cầm bông lúa vàng ươm, trĩu hạt, ông Tám nói: “Nhờ được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, vụ lúa vừa rồi của gia đình tôi đạt năng suất 8,5 tấn/ha. Lợi nhuận tăng khoảng 5 triệu đồng/ha so với trước khi tham gia mô hình. Bây giờ, cày ruộng, gieo giống, bón phân, xịt thuốc, thu hoạch đều có máy, nhanh hơn và chi phí rẻ hơn”.
Nắm bắt xu thế phát triển chung, nông dân ĐTM từng bước ứng dụng khoa học - kỹ thuật, phát triển chuỗi sản xuất nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với vai trò kết nối nông dân, doanh nghiệp, các hợp tác xã (HTX) từng bước nhận được sự tin cậy của người dân. HTX Nông nghiệp Gò Gòn (xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) là một điển hình tiêu biểu. Với vai trò trung gian, HTX kết nối cùng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, vật tư nông nghiệp với mức giá ưu đãi cho thành viên. Đồng thời, HTX liên kết sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng, sản lượng cao, thu hút sự quan tâm của các đơn vị thu mua.
Hiện tại, ngoài xây dựng thành công thương hiệu gạo của HTX, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm đầu ra, mô hình hoạt động của HTX Nông nghiệp Gò Gòn còn giúp thành viên tiết kiệm chi phí 3-5 triệu đồng/ha/năm. Bên cạnh sản xuất lúa ƯDCNC, HTX Nông nghiệp Gò Gòn đang xây dựng mô hình sản xuất lúa hữu cơ, hướng đến chung tay thực hiện đề án 1 triệu hécta lúa chất lượng cao./.
Quốc lộ 62 không chỉ có vai trò quan trọng trong giao thông mà còn giúp kinh tế ĐTM phát triển khi khơi thông việc vận chuyển hàng hóa, lương thực. Nhờ có tuyến đường, giá nông sản tại ĐTM được nâng lên”.