Đột phá chiến lược thể chế, hạ tầng, nhân lực - ba trụ cột phát triển đất nước
Ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực vẫn là 'gốc rễ' cho giai đoạn phát triển mới. Những điều kiện tiên quyết để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững như Kinh tế số, chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo… đều phụ thuộc vào chất lượng thể chế, năng lực nguồn nhân lực và chiến lược kết nối hạ tầng đồng bộ.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026.
Trong hơn một thập kỷ qua, cải cách thể chế còn chậm và chồng chéo, tồn tại nhiều “điểm nghẽn” pháp lý, phân cấp và quy trình hành chính. Hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ và đô thị tuy được đầu tư nhưng vẫn thiếu đồng bộ, dữ liệu số phân tán, gây khó khăn cho chia sẻ và quản lý. Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu, giáo dục, kỹ năng số chưa đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên 4.0, khiến ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực chưa phát huy hiệu quả. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng ba trụ cột này, coi đó là nền tảng lâu dài và định hướng ổn định cho phát triển quốc gia, tránh phân tán nguồn lực và bảo đảm tạo ra đột phá mới trong giai đoạn tới.
Nội hàm của đột phá thể chế trong giai đoạn 2026 - 2030
Trong giai đoạn trước, công tác hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung vào xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý. Bước sang giai đoạn 2026 - 2030, cần chuyển sang bảo đảm tính thực thi, hiệu lực và hiệu quả của thể chế, qua đó tạo nên tính minh bạch, nhất quán, ổn định của chính sách, củng cố niềm tin cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Quan trọng hơn, thể chế phải được đi sâu vào đời sống của nhân dân, góp phần xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng trong xã hội, xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi. Đồng thời, cần chuyển vai trò Nhà nước từ “làm thay” sang “kiến tạo, giám sát và hỗ trợ”, nâng cao trách nhiệm giải trình của bộ máy công quyền. Đây chính là yêu cầu then chốt để kinh tế tư nhân thật sự trở thành một động lực quan trọng như Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định.
Hoàn thiện thể chế về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và kinh tế xanh trong giai đoạn mới phải mang tính tầm nhìn xa để mở đường cho phát triển kinh tế số, xã hội số, an toàn thông tin, giao dịch điện tử xuyên biên giới, quản lý tài sản số và quy định chặt chẽ về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường số.
Tập trung phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững trong việc định giá carbon, xây dựng quy định thị trường tín chỉ carbon, chính sách thu hút đầu tư năng lượng tái tạo và triển khai kinh tế tuần hoàn. Hoàn thiện các chính sách đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ trong việc thể chế hóa sandbox, khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu phát triển R&D và quy định bảo hộ tài sản trí tuệ.
Việc đột phá thể chế giai đoạn tới phải phân cấp mạnh hơn, trao quyền đi kèm trách nhiệm, đồng thời tăng cường giám sát, minh bạch trong quản trị và kiểm soát quyền lực tránh tình trạng lạm dụng chức quyền. Bởi thể chế dù tốt đến đâu cũng khó vận hành hiệu quả nếu thiếu đội ngũ thực thi liêm chính, có năng lực trong việc thực thi nhiệm vụ và tinh thần phục vụ nhân dân.
Hạ tầng số đi trước một bước, an ninh năng lượng phải được bảo đảm
Hạ tầng số không chỉ là cáp và trạm 5G mà là một hệ sinh thái gồm kết nối quốc tế và nội địa (cáp quang, cáp biển), trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây, nhận diện số (e-ID), nền tảng dữ liệu công dân và dữ liệu mở, thanh toán điện tử, an ninh mạng và nguồn năng lượng xanh cho các trung tâm dữ liệu. Việt Nam đã có tiến triển quan trọng nhưng cần sắp xếp ưu tiên để tạo “bước nhảy” chiến lược.
Trong 5 năm tới, cần tập trung bảo đảm hạ tầng lõi và kết nối quốc tế vì băng thông lớn, đa tuyến giúp hạ chi phí, tăng độ ổn định cho dịch vụ AI, cloud, thương mại xuyên biên giới. Việc đưa thêm tuyến cáp biển và mở rộng điểm trao đổi Internet giúp giảm độ trễ và rủi ro lệ thuộc vào các tuyến của các quốc gia khác
Xây dựng trung tâm dữ liệu theo tiêu chuẩn quy định xanh. Hoàn thiện và triển khai đồng bộ nhận diện số và nền tảng công cộng vì đây chính là bước đệm cho dịch vụ tài chính, hành chính công, thương mại điện tử xuyên biên giới và khi mọi tổ chức sử dụng chung chuẩn nhận diện thì phát triển dịch vụ số sẽ tăng tốc mạnh mẽ.
Thực thi Luật Dữ liệu và khung quản trị dữ liệu quốc gia để khai thác hiệu quả được dữ liệu chung. Xây dựng chiến lược phát triển an ninh mạng, dự phòng rủi ro tấn công, khả năng phục hồi và năng lượng xanh cho hạ tầng số.
Về năng lượng, chúng ta không chỉ thiếu điện, mà thiếu cả thể chế năng lượng linh hoạt để huy động nguồn lực mới trong phát triển năng lượng quốc gia. Vì vậy, các giải pháp trọng tâm cho 5 năm tới gồm: hoàn thiện thể chế và thị trường điện cạnh tranh; cho phép hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp tiêu thụ năng lượng lớn với các nhà máy năng lượng tái tạo.
Phát triển mạnh năng lượng tái tạo gắn với hệ thống lưu trữ điện, tập trung đầu tư điện gió ngoài khơi, điện mặt trời áp mái, và điện sinh khối cho khu công nghiệp, khu đô thị. Khuyến khích dự án lưu trữ năng lượng và thủy điện tích năng, giúp cân bằng công suất giữa giờ cao và thấp điểm tiêu thụ điện. Đưa tiêu chí “điện xanh - sạch - ổn định” vào chiến lược thu hút FDI công nghệ cao.
Ưu tiên đầu tư lưới điện thông minh và hệ thống điều độ tự động hóa kết nối các nguồn điện tái tạo phân tán. Ứng dụng các công nghệ mới AI, IoT và dữ liệu lớn để tối ưu vận hành, dự báo nhu cầu, cảnh báo rủi ro và quản lý an ninh năng lượng theo thời gian thực. Triển khai lưới điện siêu cao áp Bắc - Nam để giải tỏa công suất gió, mặt trời khu vực miền Trung và miền Nam.
Thúc đẩy chuyển đổi xanh trong tiêu dùng năng lượng, khuyến khích doanh nghiệp công nghiệp áp dụng tiêu chuẩn ISO 50001, ESG và chứng nhận RE100. Phát triển thị trường tín chỉ carbon để định giá phát thải và khuyến khích tiết kiệm năng lượng.
Tận dụng cơ chế đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) để thu hút vốn xanh, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực năng lượng mới. Xây dựng cơ chế bảo lãnh rủi ro, chia sẻ doanh thu để hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi và hệ thống lưu trữ năng lượng.
Hình thành “tầng nhân lực chiến lược” tinh hoa
Xác định rõ các lĩnh vực tinh hoa cần ưu tiên và là thế mạnh của quốc gia để trở thành chiến lược cốt lõi gắn với định hướng công nghiệp hóa.
Với thế mạnh của Việt Nam, trục đào tạo tinh hoa nơi mà nhà nước, doanh nghiệp và các chương trình đào tạo của các trường đại học chính là tập trung vào lĩnh vực công nghệ sinh học và y sinh (phục vụ y tế, nông nghiệp, thực phẩm chức năng). Thiết lập cơ chế “tam giác nhân lực”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Đại học nhằm đào tạo nhân lực mũi nhọn hiệu quả. Trong đó nhà nước giữ vai trò xây dựng chiến lược quốc gia về nhân lực tinh hoa, cấp học bổng toàn phần, hỗ trợ nghiên cứu, khởi nghiệp công nghệ cao. Doanh nghiệp tham gia đồng thiết kế chương trình đào tạo, đặt hàng chuyên sâu. Trường đại học và viện nghiên cứu phải trở thành các trung tâm ươm mầm nhân tài bằng cách liên kết đào tạo quốc tế, đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
Xây dựng mạng lưới đại học tinh hoa quốc gia bằng cách lựa chọn trường đại học trọng điểm quốc gia theo từng lĩnh vực đào tạo mũi nhọn để đầu tư ngân sách ổn định, cơ chế tự chủ cao và thu hút nhiều chuyên gia quốc tế. Tạo cơ chế “trải thảm” cho chuyên gia và du học sinh hồi hương.
Xây dựng quỹ tài năng quốc gia nhằm hỗ trợ tài chính, nhà ở, thuế thu nhập và điều kiện nghiên cứu cho chuyên gia Việt kiều, trí thức đóng góp cho nước nhà. Cho phép cơ chế tuyển dụng đặc cách cho các nhân sự cao cấp đang làm việc tại nước ngoài về làm việc trong nước với mức đãi ngộ cạnh tranh.
Trong ba đột phá chiến lược, thể chế là điều kiện tiên quyết để mở khóa hai đột phá còn lại và Việt Nam cần một đột phá thể chế thế hệ mới nơi quyền lực được kiểm soát, sáng tạo được bảo vệ, và nguồn lực được phân bổ công bằng, minh bạch và hiệu quả. Khi đó, thể chế không chỉ là “khung pháp lý”, mà trở thành “động cơ phát triển” cho đất nước bước vào giai đoạn công nghiệp công nghệ cao và phát triển bền vững.











