Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TƯ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tiếp đó, chỉ sau 20 ngày, Chính phủ ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57. Các sự kiện trên không chỉ khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần đổi mới, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng khoa học và người dân.

Các đại biểu tham gia kết nối cung cầu công nghệ do Trung tâm KH&CN Phú Yên tổ chức. Ảnh: VĂN TÀI
Đây cũng chính là chủ trương, quyết sách mạnh mẽ mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.
Bước đột phá trong tư duy phát triển
Theo ông Nguyễn Công Nhật, Giám đốc Trung tâm KH&CN Phú Yên, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57 thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời đại 4.0. Mục tiêu chính của Nghị quyết 57 tập trung vào việc giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng các nguồn lực khác nhau của xã hội để tập trung cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST), chuyển đổi số, đổi mới phương thức làm việc, tích lũy tư liệu sản xuất mới dựa trên dữ liệu, từ đó đưa Việt Nam nhanh chóng trở thành quốc gia có thu nhập cao, phát triển bền vững.
Trong khi đó, TS Thái Ngọc Chiến, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, nhận xét: Nghị quyết 57 như một mũi nhọn tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn từ nhận thức chung đến thể chế, nhằm giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho KHCN&ĐMST và chuyển đổi số.
“Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được đánh giá là một bước tiến lớn khi xác định rõ thực trạng, định hướng chỉ đạo cùng những yêu cầu cấp bách trong phát triển KHCN&ĐMST. Điểm nổi bật được quan tâm là các chủ trương thúc đẩy hợp tác công tư về phát triển công nghệ chiến lược, tạo cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và bố trí nguồn lực, tạo đà cho khoa học công nghệ phát triển”, TS Thái Ngọc Chiến nói.
Với quan điểm và cách tiếp cận mới, 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết 57 đưa ra là sự tổng hòa giữa các yếu tố nền tảng và các yếu tố đột phá. Trong đó, tư tưởng đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo được nhấn mạnh là yếu tố rất quan trọng, quyết định cho thành công của nghị quyết.
“Nghị quyết 57 có tính định hướng chiến lược rõ ràng, đặt KH&CN vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện sự công nhận mà còn khích lệ, động viên giới trí thức, nhà khoa học cảm thấy tự hào và ý thức trách nhiệm cao hơn, tạo động lực để tiếp tục nỗ lực nghiên cứu và sáng tạo, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển quốc gia. Đặc biệt, việc chấp nhận rủi ro và đầu tư mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học sẽ cho phép các nhà khoa học mạnh dạn khai phá những ý tưởng và hướng đi mới”, Giám đốc Trung tâm KH&CN Phú Yên chia sẻ thêm.
Hướng tới sản phẩm đầu ra về KH&CN
Trước những vấn đề nêu trên, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển KHCN&ĐMST và chuyển đổi số quốc gia đã mang đến những đột phá mạnh mẽ trong hoạt động này, trong đó có thay đổi cách quản lý tài chính công. Cụ thể, cơ chế quản lý tài chính sẽ chuyển sang hướng đầu tư dựa trên kết quả đầu ra, thay vì kiểm soát chứng từ như hiện nay. Nhà nước sẽ trở thành “nhà đầu tư công” với các mục tiêu rõ ràng, gắn với KPI (đo lường doanh thu) sản phẩm.
Là đơn vị thực hiện nhiều đề tài, dự án KH&CN cấp quốc gia và cấp tỉnh tại Phú Yên, TS Nguyễn Minh Hưng, Viện Thổ nhưỡng nông hóa, kỳ vọng khi cơ chế này được thực thi, những rào cản về tài chính và thủ tục hành chính sẽ được gỡ bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu và sáng tạo, thay vì bị cuốn vào việc hoàn thiện chứng từ như hiện nay. Nhất là khi điểm nghẽn về quy trình quản lý hiện nay được tháo gỡ, cơ chế quản lý tài chính hướng tới sản phẩm đầu ra về KH&CN hơn là hướng tới chứng từ thì nhiều người có thể yên tâm, tập trung làm KH&CN. Các nhà khoa học, doanh nghiệp và các nhà quản lý kết hợp với nhau tạo nên các hệ thống ĐMST khác nhau trong các ngành và các vùng miền, khi đó kinh tế sẽ phát triển theo hướng kinh tế sáng tạo và kinh tế đổi mới sáng tạo.
“Tôi nghĩ điều này sẽ trả lại đúng bản chất của đổi mới sáng tạo trong hoạt động KH&CN”, TS Nguyễn Minh Hưng phân tích.
Theo ông Trần Nhật Nam, Giám đốc Công ty TNHH Khoa học công nghệ và Môi trường C.M.PY (TP Tuy Hòa), thời gian đến, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57, các cơ quan chức năng cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về KHCN&ĐMST phù hợp với cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro, mạo hiểm và độ trễ trong hoạt động; đồng bộ hóa các quy định của pháp luật, chính sách liên quan tới KHCN&ĐMST theo hướng tháo gỡ các nút thắt, rào cản, tạo thuận lợi tốt nhất cho phát triển KHCN&ĐMST. Đồng thời, các cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý phải được xây dựng và triển khai thuận lợi, đi vào thực tiễn cuộc sống; kết quả, sản phẩm KHCN&ĐMST khi đó thực sự là hàng hóa đặc biệt, có giá trị, quyền sở hữu và được lưu thông trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức cần nâng cao năng lực ĐMST, mà trọng tâm là năng lực đổi mới công nghệ và năng lực quản trị doanh nghiệp, từng bước xây dựng nền kinh tế tự chủ dựa trên KHCN&ĐMST.
“Để KHCN&ĐMST thực sự là quốc sách hàng đầu, là đột phá chiến lược, là động lực phát triển KT-XH đất nước, sự nỗ lực của ngành KH&CN là cần thiết, nhưng chưa đủ mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với sự chung tay, góp sức của tất cả các cấp, ngành, địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội”, ông Trần Nhật Nam chia sẻ thêm.
5 ĐỘT PHÁ CỦA NGHỊ QUYẾT 57
- Đến năm 2030 và 2045, Việt Nam có thể trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao.
- Đến năm 2030, kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ đầu tư xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển KHCN&ĐMST, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
- Ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển KHCN ưu tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển KHCN.
- Chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu KHCN&ĐMST (lâu nay các cơ quan quản lý và dư luận xã hội quan niệm, nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN được Nhà nước tài trợ phải thành công 100%, nếu không thành công sẽ bị coi là lãng phí, thất thoát).
- Tính khả thi trong tổ chức thực hiện Nghị quyết 57 đi vào cuộc sống.