Đột phá thu hút nhân tài cho khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ chiến lược
Chính sách mới được kỳ vọng thu hút và hỗ trợ tài năng trẻ theo học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.

Hội thảo xin ý kiến chính sách xét, cấp học bổng, chi phí sinh hoạt cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược. Ảnh: Mạnh Tùng
Sáng 20/6, Bộ GD&ĐT tổ chức hội thảo xin ý kiến chính sách xét, cấp học bổng, chi phí sinh hoạt cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.
Hội thảo diễn ra tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, do Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Lê Tấn Dũng chủ trì. Dự hội thảo có đại diện nhiều trường đại học, học viện trên cả nước.
Chính sách thu hút, động viên người học có năng lực
Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Lê Tấn Dũng cho biết, việc xây dựng chính sách trên được thực hiện theo chủ trương Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 1/4/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.
Theo đó, Bộ GD&ĐT được giao chủ trì xây dựng Nghị định quy định chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Mạnh Tùng
Tại hội thảo, ông Ngô Văn Thịnh, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ GD&ĐT), Phó Trưởng ban soạn thảo, Tổ trưởng Tổ biên tập trình bày đề dẫn một số nội dung cần trao đổi về sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, công nghệ chiến lược và kỹ thuật then chốt; một số nội dung chính dự kiến quy định trong nghị định về chính sách nêu trên.
Chính sách học bổng dành cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược được xây dựng trên nền tảng các văn bản pháp luật và quy định hiện hành của Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực trọng yếu của quốc gia.
Chính sách học bổng được xây dựng nhằm hỗ trợ, động viên người học có năng lực và triển vọng trong các ngành chiến lược, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Ông Ngô Văn Thịnh, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ GD&ĐT) trình bày tại hội thảo. Ảnh: Mạnh Tùng
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế toàn cầu hóa, các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược đóng vai trò trọng yếu trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong các lĩnh vực này hiện vẫn còn hạn chế về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Tình trạng thiếu hụt nhân tài trong các ngành trọng điểm cho thấy nhiều ngành khoa học công nghệ tiên tiến đang thiếu hụt nhân lực có trình độ cao, đặc biệt là các kỹ sư, nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản và có kỹ năng thực tiễn. Điều này ảnh hưởng đến khả năng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới và phát triển các lĩnh vực mũi nhọn của quốc gia.
Do đó, chính sách xét, cấp học bổng sẽ thu hút và khuyến khích các tài năng trẻ học tập, nghiên cứu và làm việc trong các lĩnh vực trên, đồng thời giúp người học giảm bớt khó khăn tài chính trong quá trình học tập.
Đặc biệt, chính sách này có ý nghĩa đối với những người học tài năng nhưng có hoàn cảnh khó khăn, giúp họ có thể tập trung vào việc học và nghiên cứu mà không phải lo lắng về chi phí nhằm khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của quốc gia trong tương lai.
Áp dụng cho cả khối công lập và tư thục
Theo ông Ngô Văn Thịnh, dự thảo nghị định quy định chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược gồm 4 chương và 17 điều.
Trong đó, từ điều 1 đến điều 4 là các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, danh mục các ngành được hưởng chính sách, mức và thời gian xét cấp học bổng, hỗ trợ chi phí sinh hoạt.
Từ điều 5 đến điều 8 là các quy định về tiêu chí và quy trình xét cấp học bổng và chi phí sinh hoạt. Từ điều 9 đến điều 11 là các quy định về nguồn kinh phí và quản lý kinh phí.

Ông Ngô Văn Thịnh trình bày đề dẫn một số nội dung chính sách. Ảnh: Mạnh Tùng
Người học mà dự thảo nghị định hướng tới là sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh.
Đối tượng là tất cả các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo các ngành thuộc danh mục ngành được hưởng chính sách của nghị định (cả công lập và ngoài công lập).
Định hướng của nghị định sẽ hỗ trợ học bổng và chi phí sinh hoạt để giúp người học thuộc đối tượng quy định trang trải chi phí học tập và các chi phí liên quan đến việc học tập.
Người học được Nhà nước cấp học bổng theo mức trần học phí theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục của năm hiện hành đối với chuyên ngành tương ứng và theo các mức là 100% cho kết quả học tập xếp loại xuất sắc, 70% cho kết quả học tập xếp loại giỏi và 50% cho kết quả học tập xếp loại khá.
Người học được Nhà nước hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả sinh hoạt phí trong thời gian học tập tại cơ sở giáo dục.
Thời gian hỗ trợ học bổng và chi phí sinh hoạt được xác định theo số tháng thực tế học tập tại trường theo quy định, nhưng không quá 10 tháng/năm học.
Đề xuất mở rộng nhóm người học được thụ hưởng chính sách
Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các cơ sở giáo dục đại học trình bày các bài tham luận về phát triển cơ chế học bổng, khuyến khích tài năng đào tạo đại học và sau đại học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.

TS Trần Thanh Thưởng, Trưởng phòng Tuyển sinh và Công tác sinh viên, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM trình bày tham luận. Ảnh: Mạnh Tùng
TS Trần Thanh Thưởng, Trưởng phòng Tuyển sinh và Công tác sinh viên, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM cho rằng, chi phí đào tạo cao cùng áp lực tài chính từ các chương trình học dự án đang là những rào cản khiến không ít thí sinh ngần ngại khi lựa chọn các ngành Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học. Trong bối cảnh đó, các chính sách học bổng và hỗ trợ học phí trở thành “đòn bẩy” quan trọng, giúp sinh viên an tâm theo đuổi đam mê, đặc biệt là tại các trường đại học chú trọng phát triển khối ngành này.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thu hút nhân lực chất lượng cao cho các ngành STEM, nhiều cơ sở giáo dục đã triển khai các chính sách học bổng đa dạng. Nhờ chính sách học bổng linh hoạt, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM nhận sự gia tăng đáng kể lượng thí sinh đăng ký vào các ngành kỹ thuật.
Trong năm 2024, nhà trường đã dành hơn 60 tỷ đồng cho quỹ học bổng, hỗ trợ thiết thực cho sinh viên.
Trường còn áp dụng nhiều loại hình học bổng đặc biệt: Học bổng khuyến tài; Học bổng 50% học phí dành cho sinh viên nữ theo học các ngành kỹ thuật…

TS Trịnh Thanh Đèo, Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên trình bày về chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược. Ảnh: Mạnh Tùng
TS Trịnh Thanh Đèo, Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TPHCM) đề xuất 6 kiến nghị và đề xuất.
Ông Đèo cho rằng, nên mở rộng chính sách học bổng cho các bậc học cao hơn; hỗ trợ toàn diện ngoài học bổng học phí; thúc đẩy hợp tác công - tư cấp học bổng.
Theo ông, hiện nay, chính sách học bổng của chúng ta chủ yếu tập trung vào trình độ đại học. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, nhu cầu về một đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy chất lượng cao ở trình độ sau đại học ngày càng trở nên cấp thiết.
Để đáp ứng nhu cầu này và thúc đẩy sự phát triển bền vững, cần thiết phải mở rộng đối tượng thụ hưởng học bổng sang các bậc học cao hơn.
Cụ thể, cần xem xét bổ sung học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học các ngành thuộc danh mục khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược vào diện được hưởng học bổng.

TS Nguyễn Trung Nhân, Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Công nghiệp TPHCM góp ý tại hội thảo. Ảnh: Mạnh Tùng
Nhiều chuyên gia khác cho rằng, để thực sự khuyến khích và thu hút sinh viên giỏi vào các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược, cần có những điều chỉnh quan trọng trong chính sách học bổng trong dự thảo nghị định.
Trong đó, việc cập nhật danh mục ngành phù hợp với nhu cầu thị trường, tăng cường truyền thông và định hướng nghề nghiệp, cùng với việc trao quyền tự chủ hơn cho các cơ sở giáo dục trong việc xét và cấp học bổng là những yếu tố then chốt.
Đảm bảo tính hiệu quả

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng trao đổi với các đại biểu tại hội thảo. Ảnh: Mạnh Tùng
Trao đổi với các chuyên gia tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Lê Tấn Dũng nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới thu hút, đãi ngộ người tài, nhưng vấn đề cốt lõi là cần cụ thể hóa chính sách trong thực tiễn sao cho đồng bộ, hiệu quả.
Thứ trưởng cho biết, trong số 53 triệu người trong độ tuổi lao động ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ qua đào tạo đạt hơn 68%, song chỉ trên 27% có bằng cấp, chứng chỉ. Điều này cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn hạn chế; đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt có sự đầu tư mất cân đối so với các ngành khác.
Thứ trưởng cũng cho rằng, với các góp ý từ chuyên gia, có thể thấy các quy định học bổng sau đại học còn chưa rõ nét, kinh phí dành cho khoa học công nghệ vẫn còn dàn trải, thiếu trọng điểm. Đây là những thông tin rất quan trọng để ban soạn thảo rà soát, điều chỉnh và bổ sung chính sách phù hợp hơn.
Thứ trưởng Lê Tấn Dũng cũng nhấn mạnh, chính sách cấp, xét học bổng mới sẽ không làm thay đổi hay hạn chế các chính sách học bổng, hỗ trợ người học hiện đang áp dụng tại các trường. Mà đây là sự bổ sung cần thiết nhằm khuyến khích người học theo đuổi các ngành mũi nhọn, chiến lược của đất nước.
Theo dự thảo nghị định, nhóm ngành Khoa học cơ bản được quy định là Toán học; Thống kê; Khoa học máy tính (được xem là một ngành khoa học cơ bản trong lĩnh vực công nghệ); Vật lý học; Hóa học; Sinh học; Khoa học môi trường; Địa chất học; Địa lý tự nhiên; Khí tượng và khí hậu học; Thủy văn học; Hải dương học.
Nhóm ngành Kỹ thuật then chốt có 2 phương án.
Phương án 1 là các ngành Công nghệ thông tin, Khoa học dữ liệu, Trí tuệ nhân tạo, Điện Điện tử, Tự động hóa, Cơ khí chính xác, Kỹ thuật hàng không, Vật liệu mới.
Phương án 2 là các ngành Kỹ thuật cơ khí; Kỹ thuật điện; Kỹ thuật công nghiệp; Kỹ thuật xây dựng; Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông; Kỹ thuật công nghệ thông tin; Kỹ thuật điện tử - viễn thông; Kỹ thuật cơ điện tử; Kỹ thuật hóa học; Kỹ thuật môi trường; Kỹ thuật phần mềm; Kỹ thuật cơ khí động lực; Kỹ thuật ô tô; Kỹ thuật thực phẩm; Kỹ thuật năng lượng; Kỹ thuật tự động hóa
Nhóm ngành Công nghệ chiến lược có 2 phương án
Phương án 1 là các ngành Công nghệ sinh học, Công nghệ Nano, Công nghệ vũ trụ, Công nghệ môi trường, Công nghệ năng lượng tái tạo.
Phương án 2 gồm Công nghệ thông tin; Kỹ thuật phần mềm; Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử; Công nghệ kỹ thuật tự động hóa; Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu; Công nghệ nano; Công nghệ thông tin - An toàn thông tin; Công nghệ môi trường; Công nghệ thực phẩm; Công nghệ điều khiển và tự động hóa; Công nghệ truyền thông đa phương tiện; Công nghệ y sinh; Công nghệ chế tạo máy; Công nghệ thông tin - Khoa học dữ liệu.