Dự báo thời kỳ dân số vàng của Việt Nam sẽ kết thúc vào năm 2036

Thông tin được Cục Thống kê (Bộ Tài chính) đưa ra tại Hội thảo công bố các kết quả nghiên cứu chuyên sâu được xây dựng từ kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ và Điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, diễn ra ngày 23/12, tại Hà Nội.

Quang cảnh hội thảo.

Quang cảnh hội thảo.

Hội thảo đã cung cấp 3 báo cáo nghiên cứu quan trọng, phản ánh những vấn đề cốt lõi liên quan đến nghèo đa chiều trẻ em dân tộc thiểu số, xu hướng di cư nội địa và triển vọng dân số Việt Nam trong dài hạn, qua đó mang đến những bằng chứng khoa học có giá trị cho hoạch định chính sách.

Đáng chú ý, báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024 - 2074” đã cung cấp cái nhìn toàn diện về xu hướng biến đổi quy mô, cơ cấu và phân bố dân số Việt Nam trong nửa thế kỷ tới. Theo dự báo, dân số Việt Nam tiếp tục tăng nhưng tốc độ tăng sẽ chậm dần và đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình.

Trong giai đoạn 2024 - 2074, dân số theo ba kịch bản mức sinh thấp, trung bình và cao sẽ tăng lần lượt 2,5%, 12,7% và 17,0%, đạt quy mô tương ứng 103,9; 114,2 và 118,5 triệu người. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng dự kiến kết thúc vào năm 2036, nhường chỗ cho giai đoạn dân số già và siêu già, với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi. Như vậy, so với dự báo năm 2019, thời kỳ dân số vàng sẽ kết thúc sớm hơn 3 năm.

Báo cáo cũng cho thấy, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XXI, kéo dài đến nay và được dự báo sẽ tiếp tục trong ít nhất 5 năm tới, trước khi có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, những hệ lụy của tình trạng này sẽ còn kéo dài trong nhiều thập kỷ, thể hiện ở việc số nam giới trong độ tuổi kết hôn vượt xa số nữ giới.

Bà Nguyễn Thị Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính phát biểu tại hội thảo.

Bà Nguyễn Thị Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính phát biểu tại hội thảo.

Dưới góc nhìn kinh tế, bà Nguyễn Thị Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Thống kê cho rằng, trong thập kỷ tới, việc tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bà Ngọc nhấn mạnh, cần ưu tiên đầu tư mạnh mẽ vào phát triển kỹ năng cho lực lượng lao động, nhất là kỹ năng số, kỹ năng nghề và năng lực thích ứng công nghệ. Cùng với đó, cần cải thiện điều kiện việc làm và phát triển môi trường lao động an toàn, linh hoạt giúp giữ chân và phát huy tối đa lực lượng lao động trẻ, tăng sức chống chịu của nền kinh tế.

Còn theo góc nhìn dân số, kế hoạch hóa gia đình, ông Nguyễn Thế Hà, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Thông tin và Dữ liệu, Cục Dân số, Bộ Y tế cho biết, tình trạng mất cân bằng giới tính sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi gia đình - những tế bào của xã hội, và có thể góp phần làm suy giảm mức sinh, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội. Do đó, cần sớm có các chính sách ứng phó với hệ lụy này trong trung và dài hạn.

Theo đại diện Cục Dân số, một trong những ưu tiên trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia để kết nối cơ sở dữ liệu dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành về hộ tịch, y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội, lao động - việc làm... nhằm hoạch định chính sách phát triển ở tầm vĩ mô, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và hỗ trợ ra quyết định chính sách một cách chủ động, chính xác.

Các đại biểu trình bày báo cáo, tham gia thảo luận, kiến nghị chính sách tại hội thảo.

Các đại biểu trình bày báo cáo, tham gia thảo luận, kiến nghị chính sách tại hội thảo.

Tại Hội thảo, Cục Thống kê cũng cung cấp báo cáo “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế - xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” đưa ra bức tranh toàn diện về điều kiện sống và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của trẻ em dân tộc thiểu số. Phân tích cho thấy mức độ nghèo đa chiều có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân tộc và vùng địa lý.

Nghiên cứu nhấn mạnh vai trò then chốt của giáo dục, đặc biệt là giáo dục trung học đối với trẻ em gái trong giảm nghèo liên thế hệ và giảm kết hôn trước 18 tuổi, qua đó khẳng định sự cần thiết của các chính sách can thiệp tổng hợp, linh hoạt và phù hợp với đặc thù từng dân tộc.

Bên cạnh đó, báo cáo “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009 - 2024” tập trung phân tích xu hướng, quy mô và động lực của di cư nội địa trong 15 năm qua. Kết quả cho thấy quy mô di cư nội địa có xu hướng giảm rõ rệt, từ khoảng 6,4 triệu người giai đoạn 2014 - 2019 xuống còn 3,8 triệu người giai đoạn 2019 - 2024. Di cư thành thị - thành thị chiếm trên 70%, cho thấy phần lớn người di cư tiếp tục lựa chọn các đô thị làm điểm đến. Đồng thời, xu hướng di chuyển ở khoảng cách ngắn ngày càng phổ biến, phản ánh nhu cầu ổn định nơi cư trú và giảm chi phí di chuyển.

Những biến động này cho thấy các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực nông thôn, ven đô và các thành phố vệ tinh đã bước đầu phát huy hiệu quả trong tạo việc làm tại chỗ, song vẫn cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng linh hoạt, bao trùm và bảo đảm tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội cho người di cư, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.

Thế Đoàn/Báo Tin tức và Dân tộc

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/xa-hoi/du-bao-thoi-ky-dan-so-vang-cua-viet-nam-se-ket-thuc-vao-nam-2036-20251223090437731.htm