Du ký Nam Lào - Bài cuối: Gặp gỡ và du ngoạn ở Champasak
Theo lịch trình, chúng tôi rời Savanakhet về Champasak, vùng đất cố đô của Lào. Champasak là địa bàn hiểm yếu, vùng đất ba biên giới, giáp với các tỉnh Preah Vihear và Stung Treng của Campuchia về phía Nam và tỉnh Ubon Ratchathani của Thái Lan phía Tây. Những thăng trầm của lịch sử đã để lại trên mảnh đất này nhiều di tích lịch sử, văn hóa phong phú.

Thành phố Pakse
Pakse, thủ phủ của Champasak, là một thành phố năng động. Thành phố tọa lạc ở nơi hợp lưu của sông Mekong và sông Xedone. Với các cầu nối với Thái Land cũng như nối liền hai phần đất của Champasak qua sông, Pakse trở thành một trung tâm thương mại lớn, có tốc độ phát triển rất nhanh. Đi trên đường phố, người ta cảm nhận ngay được nhịp sống khẩn trương ở thành phố phía Nam này.
Bà Tạ Phương Dung, Tổng lãnh sự Việt Nam tại Pakse dành cho chúng tôi một bất ngờ. Khi tới thăm lãnh sự quán Việt Nam, chúng tôi được gặp cả Ban chấp hành hội người Việt ở Champasak. Theo anh Vũ Đình La (tên Lào là Chanthala Vinavong), Phó Chủ tịch Hội, khi biết có đoàn chúng tôi đến Pakse, các anh chị đã chủ động tổ chức buổi họp này, vừa bàn công tác hội, vừa gặp gỡ với chúng tôi. Tôi đã đi nhiều nơi, những cuộc gặp với bà con Việt kiều luôn mang đến những cảm nhận đặc biệt về tình người nơi xa xứ. Qua trò chuyện với các anh các chị, chúng tôi cũng hiểu được tình hình người của người Việt ở Champasak cũng như ở các tỉnh phía Nam Lào nói chung.

Gặp gỡ với Tổng lãnh sự Việt Nam tại Pakse - Bà Tạ Phương Dung - và Ban chấp hành Hội người Việt Nam tại Champasak.
Hiện nay cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn tại bốn tỉnh Nam Lào - Champasak, Sekong, Attapeu và Salavan - có khoảng 15.000 người. Một số là con cháu của các thế hệ đã sang sinh sống ở Lào trước đây, đến nay đã là thế hệ thứ tư, thứ năm trên đất Lào. Một số là những người dân sang đây làm ăn, buôn bán những năm sau này. Ngoài ra còn có các công nhân các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Nam Lào, nhiều nhất là các công ty trồng cao su, chủ yếu đến từ miền Trung và Tây nguyên. Ngoài ra còn có số lao động sang làm các nghề xây dựng, dịch vụ. Số người Việt ở Champasak đông nhất so với 3 tỉnh còn lại, gồm gần 1.000 hộ gia đình.
Cả bốn tỉnh Nam Lào đều có các hội người Việt, với các chi hội cơ sở. Các tỉnh hội đều được công nhận là thành viên Mặt trận Lào xây dựng đất nước. Mỗi tỉnh có một trường hữu nghị Lào - Việt thuộc quản lý của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh và Hội người Việt Nam của tỉnh. Trường hữu nghị tỉnh Champasak được thành lập năm 1978, có 375 học sinh cấp 1 và cấp 2. Các trường hữu nghị ở Sekong và Attapeu mỗi trường có gần 500 học sinh. Riêng trường ở Sekong có các lớp cấp 3. Trường hữu nghị ở Salavan có gần 200 học sinh. Giáo viên đa số là người gốc Việt hoặc người Lào tốt nghiệp các trường ở Việt Nam.

Quang cảnh Pakse
Quan hệ hợp tác Lào Việt trên địa bàn các tỉnh phía nam Lào phát triển tốt. Một số dự án lớn của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp, cao su, thủy điện và khai khoáng. Một số doanh nghiệp của kiều bào hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhà hàng, khách sạn, kinh doanh xe máy, vật liệu xây dựng, sửa chữa ô tô quy mô vừa và nhỏ. Các tỉnh Nam Lào có quan hệ kết nghĩa, hợp tác với 15 tỉnh và 4 thành phố ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Các tỉnh đều có Hội hữu nghị Lào - Việt.
Ngày thứ hai ở Pakse, chúng tôi cùng Tổng lãnh sự Tạ Phương Dung về thăm xóm Tân An, một trong bảy khu định cư của người Việt ở Pakse để hiểu thêm về đời sống của và con ở đây. Xóm Tân An nằm trên một doi đất nhô ra bến sông, địa thế đẹp, nơi sinh sống lâu năm của trên một ngàn người Việt. Chúng tôi tới chùa Trang Nghiêm, chùa dành cho người Việt ở đây. Các anh chị Phan Văn Thiện, Phan Văn La, Phạm Thị Thủy và một số người khác trong ban đại diện của xóm đã chờ đón khách quý. Nghe các anh chị nói tiếng Việt, trang phục thuần Việt, đặc biệt là những chiếc áo dài truyền thống, tôi không nghĩ rằng họ đều sinh ra trên đất Lào, định cư ở đây đã mấy đời.
Qua câu chuyện với các anh chị, chúng tôi được biết, đời sống của các gia đình trong xóm ổn định. Nhiều gia đình kinh tế khá. Xóm có chùa, có đình và đền riêng do bà con góp sức dựng lên. Con cháu thế hệ sau học hành thành đạt. Một số cháu được về theo học các trường đại học ở Việt Nam. Điều quan tâm nhất của bà con ở đây cũng như các xóm Việt kiều khác là muốn có các giáo viên từ Việt Nam sang giúp giảng dạy tiếng Việt một cách cơ bản cho các cháu nhỏ để giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc văn hóa Việt .

Toàn cảnh Pakse
Chúng tôi đã cùng các anh chị trong ban đại diện đều thăm các gia đình. Nhà cửa của bà con ở đây khá khang trang, nhiều nhà có sân vườn, có ô tô và các tiện nghi khác. Chùa, đình và đền của xóm kề bên nhau, tuy không lớn nhưng dạo cảm giác ấm cúng, gần gũi. Các gia đình đều đã ở đây mấy đời nên nhiều gắn bó, chia sẻ Quan hệ với người dân Lào chan hòa, gần gũi. Mối liên hệ với cộng đồng người Việt ở Pakse, liên lạc với trong nước qua cơ quan Tổng lãnh sự ngày thêm sâu sắc gắn bó.
Ở Pakse có một khu chợ mang tên một người phụ nữ Việt Nam - chợ Đào Hương. Khu chợ với hàng trăm sạp hàng này là nơi khách du lịch thường đến khi thăm Pakse. Chúng tôi cũng đã đến đây, gặp gỡ với những người Việt đang làm buôn bán ở đây. Chợ khá rộng, có nhiều khu mua bán kinh doanh. Bà Đào Hương, một doanh nhân người Việt thành đạt ở Pakse, là người đã lập nên khu chợ này. Chúng tôi gặp chị Kim Châu, anh Nguyễn Viết Tại, hai chủ sạp hành bán đồ mỹ phẩm và trang sức.
Hai anh chị cho biết, chợ là nơi làm ăn sinh sống của hàng trăm gia đình người Việt, cùng với người Lào, qua nhiều năm. Do vị trí của Pakse là một trung tâm thương mại ở phía Nam Lào nên công việc của bà con nói chung ổn định. Bà con cùng cảnh làm ăn xa xứ luôn quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Cơ quan đại diện của Việt Nam cũng dành cho cộng đồng người Việt nhiều sự quan tâm. Con gái của chị Kim Châu đã được nhận học bổng của nhà nước Việt Nam, đang theo học năm cuối Đại học Kinh tế Quốc dân tại Hà Nội.
Cùng Tổng lãnh sự Tạ Phương Dung, chúng tôi đã đến thăm tư gia của doanh nhân Đào Hương, một khu dinh thự đẹp ngay bên bờ sông Mekong. Vợ chồng bà dành cho chúng tôi sự đón tiếp thân tình. Ở tuổi 75, quê gốc ở Huế, bà Đào Hương vẫn minh mẫn, nhanh nhạy, có sự tự tin của một người tự mình gây dựng nên sự nghiệp. Bà kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như thương mại, xuất nhập khẩu, sản xuất chế biến cà phê, kinh doanh bất động sản; là một biểu tượng cho sự thành công của người Việt ở đây. Qua qua câu chuyện với chúng tôi, bà Đào Hương có những nhận xét tốt tình đoàn kết gắn bó trong cộng đồng người Việt ở Pakse cũng như sự hòa hợp của người Việt với chính quyền và người dân địa phương.

Viếng Đài tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ Liên minh chiến đấu Lào - Việt.
Một điều đặc biệt với chúng tôi là trong câu chuyện, bà Đào Hương nhắc một nhà báo của TTXVN vời tình cảm biết ơn, quý mến. Đấy là nhà báo lão thành Đặng Kiên, nguyên Trưởng Ban Biên tập tin đối ngoại TTXVN, Phân xã trưởng Phân xã TTXVN tại Vientiane nhiều thập kỷ trước, người đã nhiều năm gắn bó với nước bạn Lào trong chiến tranh và hòa bình. Bà Đào Hương cho biết, sau khi nước Lào giải phóng, những năm 1975-1976, bà đã gặp nhà báo Đặng Kiên.
Khi ấy bà Đào Hương còn rất trẻ, chưa có hiểu biết gì nhiều, mới bắt đầu tìm cách khởi nghiệp. Bà đã được nhà báo Đặng Kiên - người mà bà gọi rất thân tình là chú Kiên - chỉ bảo nhiều điều. Nhà báo Đặng Kiên còn tận tình giúp bà kết nối với trong nước, các địa phương, doanh nghiệp ở Việt Nam để hợp tác làm ăn, vượt qua những khó khăn ban đầu để phát triển và thành công. Chúng tôi rất cảm động khi nghe bà Đào Hương tâm sự:
- Tôi không vào giờ quên sự giúp đỡ của chú Kiên trong những ngày đầu lập nghiệp, khi tôi còn rất trẻ. Sau này, có lần tôi đã tìm về Hà Nội, đến tận quê hương chú Kiên để thăm chú. Chỉ tiếc là khi ấy chú đã yếu, trí nhớ giảm sút và sau đó chú đã đi xa!

Trước khi gặp bà Đào Hương, chúng tôi cũng đã được nghe về mối quan hệ thân tình của bà với nhà báo Đặng Kiên. Nhưng lần gặp này, trực tiếp nghe bà chia sẻ, chúng tôi càng thấy quý tấm chân tình ấy của một người phụ nữ, một doanh nhân người Việt thành đạt về một người đồng nghiệp lớp trước của chúng tôi ở TTXVN.
Pakse là một thành phố đẹp. Chúng tôi đã có những buổi chiều đi bộ trên những con phố cũ, thăm những ngôi chùa cổ, đi bộ dọc sông Mekong, ngắm hoàng hôn buông trên sông. Tổng lãnh sự Tạ Phương Dung cùng chồng là kỹ sư Trịnh Hùng Mạnh đã dành trọn một ngày cuối tuần đưa chúng tôi đến những nơi đáng đến nhất ở Champasak.

Vườn tượng Phật chùa Wat Phousalao.
Chúng tôi đã lên viếng chùa Wat Phousalao, một ngôi chùa nổi tiếng trên một ngọn núi cao ở ngay thànn phố Pakse, nơi có một bức tượng Phật rất lớn, từ rất xa cũng nhìn thấy. Ngôi chùa nhìn xuống sông Mekong, có vườn hàng trăm tượng Phật và là nơi có thể nhìn bao quát toàn cảnh Pakse.
Chúng tôi đến thăm di tích Wat Phou nổi tiếng, cách Pakse khoảng 45 km về phía nam, là khu vực thứ hai của Lào được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Wat Phou được xây dựng theo phong cách Khmer vào cuối thế kỳ X, một công trình của thời kỳ tiền Angkor. Khi mới xây dựng, di tích này được biết đến là nơi thờ vị thần Shiva trong đạo Hindu.
Đến thế kỷ 13, Wat Phou đã thay đổi thành tu viện Phật Giáo và tồn tại cho đến bây giờ. Wat Phou có kiến trúc giao thoa giữa văn hóa người Khmer và đạo Hindu. Bảo tàng khu di tích trưng nhiều bức tượng, phù điêu tinh tế, có niên đại từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XI .Lối đi vào khu di tích có các tượng Linga trải dài. Hai ngôi đền chính nằm ở hướng Đông, nơi thờ thần Shiva. Những công trình kiến trúc cổ kính, đường nét chạm khắc tinh vi qua thời gian mưa nắng rêu phong nắng càng tăng thêm vẻ đẹp huyền bí, thu hút.

Chúng tôi cũng đã đến thị trấn Champasak, cách Wat Phou khoảng 10km. Thời xa xưa, thị trấn này từng là trung tâm của Vương quốc Champasak. Bây giờ, đây là một thị trấn nhỏ, yên tĩnh bên sông. Du khách đến đây để cảm nhận những biến đổi, thăng trầm theo thời gian của một vùng đất từng có quá khứ huy hoàng.
Cao nguyên Bolaven là một vùng đất đặc biệt nằm giữa sông Mê Kông và sườn phía Tây dãy Trường Sơn. Cao nguyên Bolaven chạy qua địa phận các tỉnh Champasak, Salavan, Sekong và Attapeu. Khu vực này có độ cao khoảng từ 1.000 đến 1.350 mét so với mặt nước biển. Bolaven có nhiều sông, nhiều thác nước rất đẹp. Tên gọi Bolaven bắt nguồn từ tộc người Laven, sắc tộc chủ yếu ở khu vực này trước đây. Cao nguyên là một vùng đất có nhiều ý nghĩa lịch sử, là nơi có đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua, từng bị chiến tranh tàn phá và hiện vẫn còn những vùng chưa hết bom mìn.

Thác Tad Fane.
Nhưng cũng chính vì vậy mà khu vực này lại đang tăng sức hấp dẫn đối với các tuyến du lịch Tây Trường Sơn hiện nay. Chúng tôi đã đến thác Tad Fane một trong những thác nước đẹp nhất ở Bolaven. Thác gồm hai dòng nước đổ xuống từ độ cao hơn 100 mét, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ. Du khách đến đây để ngắm cảnh và đi trên tuyến cáp căng ngang núi. Cao nguyên Bolaven còn là nơi sản xuất cà phê nổi tiếng của Lào. Chúng tôi đã thưởng thức cà phê Bolaven nguyên chất với hương vị rất đặc biệt ngay trong một trang trại cà phê rộng lớn của vùng đất này.
Trên đường từ Bolaven trở về Pakse, anh em trong đoàn dã đến viếng khu tưởng niệm liên minh chiến đấu Việt Lào, cách cách thành phố Pakse không xa. Chúng tôi đã đến nhiều khu tưởng niệm như vậy trên các vùng đất khác nhau ở Lào, những khu tưởng niệm luôn gợi nhớ đến những năm tháng hào hùng, nơi ghi dấu cho mối quan hệ thủy chung đặc biệt giưà̃ hai dân tộc.

Một góc thác Khone Phapheng.
Trong buổi sáng rời thành phố Pakse, lên đường sang Cam Pu Chia, chúng tôi cũng kịp ghé thăm thác Khone Phapheng, nằm cách Pakse khoảng 100 km. Thác nước này nằm trên sông Mekong, được ví như "Niagara của châu Á". Đây là một điểm du lịch không thể không đến ở Champasak. Từ đây, theo lộ trình, chúng tôi rời vùng đất Nam Lào, qua cặp cửa khẩu Nong Nokkhien (Lào) và Trapeang Kriel để vào để vào đất Stung Treng của Campuchia vào một ngày nắng nóng kỷ lục.