Du lịch Việt Nam vươn mình: 'Bản hòa ca' văn hóa, thiên nhiên, công nghệ và con người
Du lịch không phải cuộc đua doanh số. Đó là hành trình gieo hạt - hạt giống của sự trân trọng di sản, kết nối con người và nuôi dưỡng tình yêu thiên nhiên. Chỉ khi làm được điều đó, Việt Nam mới thực sự tỏa sáng trên bản đồ du lịch thế giới.
![Theo TS. Trịnh Lê Anh, nâng tầm du lịch Việt Nam trên bản đồ thế giới phải từ tiềm năng đến hành động chiến lược. (Ảnh: NVCC)](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_194_51453269/3cc9a9bc9ff276ac2fe3.jpg)
Theo TS. Trịnh Lê Anh, nâng tầm du lịch Việt Nam trên bản đồ thế giới phải từ tiềm năng đến hành động chiến lược. (Ảnh: NVCC)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, du lịch không chỉ là ngành kinh tế mũi nhọn mà còn là cầu nối văn hóa, thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia. Năm 2023, Việt Nam đón 12,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 3,4 lần so với năm 2022 (theo Tổng cục Du lịch) và được World Travel Awards vinh danh là “Điểm đến hàng đầu châu Á”. Thành tựu này không chỉ phản ánh sức hút từ cảnh quan, văn hóa mà còn mở ra cánh cửa để Việt Nam định vị mình trong chuỗi giá trị du lịch cao cấp toàn cầu.
Thế giới đang chuyển dịch mạnh mẽ sang xu hướng du lịch trải nghiệm (experience tourism), nơi du khách không chỉ muốn ngắm cảnh mà còn khao khát tương tác sâu với văn hóa bản địa. Đây chính là cơ hội vàng để Việt Nam tận dụng lợi thế đa dạng sinh thái và di sản văn hóa phong phú.
Các điểm đến như Mù Cang Chải (Yên Bái) với mùa lúa chín vàng, hay hành trình khám phá “Con đường di sản miền Trung” đã chứng minh tiềm năng khi thu hút đông đảo khách du lịch quốc tế trong những năm qua. Tuy nhiên, bài toán đặt ra là làm thế nào biến những tài nguyên này thành sản phẩm đặc thù, có khả năng cạnh tranh với Thái Lan, Malaysia hay Nhật Bản. Câu hỏi đó vẫn cần trả lời một cách thấu đáo.
Du lịch sáng tạo: Tái định nghĩa giá trị truyền thống trong kỷ nguyên số
Thế kỷ XXI đòi hỏi sự hòa quyện giữa bảo tồn và đổi mới. Nhật Bản đã khéo léo kết hợp công nghệ hiện đại với di sản văn hóa để tạo ra những trải nghiệm du lịch sáng tạo. Tại Kyoto, du khách có thể tham gia các buổi gặp gỡ trực tuyến với Geisha hoặc Maiko thông qua nền tảng trực tuyến, cho phép giao lưu và tìm hiểu về văn hóa Geisha từ xa.
Các trải nghiệm thực tế ảo (VR) tại Kyoto thường tập trung vào chủ đề Ninja. Tại NINJA VR KYOTO, du khách có thể tham gia các hoạt động như ném phi tiêu, sử dụng ống thổi và trải nghiệm môi trường truyền thống của Nhật Bản kết hợp với công nghệ VR.
Ẩm thực Nhật Bản kết hợp truyền thống và sáng tạo, mang đến những trải nghiệm hấp dẫn cho du khách. Tại Tokyo, các lớp học làm sushi với đầu bếp chuyên nghiệp không chỉ hướng dẫn kỹ thuật chế biến mà còn giúp du khách khám phá văn hóa qua từng bước thực hành.
Trong khi đó, Pháp, với nền ẩm thực tinh tế, nổi bật qua các tour thăm vườn nho tại Bordeaux, nơi du khách được tìm hiểu quy trình làm rượu vang, gặp gỡ nghệ nhân và thưởng thức sản phẩm ngay tại nguồn. Việc UNESCO công nhận ẩm thực Pháp (bí quyết thủ công và văn hóa làm bánh mì baguette) là Di sản văn hóa phi vật thể năm 2022 đã củng cố vị thế của quốc gia này, biến ẩm thực trở thành điểm nhấn trong hành trình của bất kỳ tín đồ ẩm thực nào.
Việt Nam đang tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao trải nghiệm du lịch và bảo tồn di sản văn hóa. Tại Hoàng thành Thăng Long, việc triển khai phòng chiếu Panorama với màn hình 360 độ đã tái hiện sống động các sự kiện lịch sử, giúp du khách như “chạm vào lịch sử” và hòa mình vào không gian của các triều đại xưa.
Tại Cố đô Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích đã ra mắt trải nghiệm thực tế ảo “Đi tìm Hoàng cung đã mất”, sử dụng công nghệ VR để tái hiện Hoàng cung Huế cách đây 200 năm. Du khách có thể tham gia các hoạt động như VR phi thuyền, VR kính viễn vọng và VR máy chạy bộ, mang lại góc nhìn toàn cảnh và chân thực về lịch sử triều Nguyễn.
Về ẩm thực, Việt Nam đã và đang phát triển các tour trải nghiệm văn hóa ẩm thực kết hợp nghỉ dưỡng cao cấp. Tuy nhiên, chúng ta chưa phát triển các tour ẩm thực sáng tạo khi tiềm năng được đánh giá là vô cùng dồi dào. Chẳng hạn, những buổi học làm bánh mì truyền thống với nghệ nhân lâu năm tại Hà Nội, hay các bữa ăn trình diễn với hiệu ứng hologram đầy ấn tượng tại TP. Hồ Chí Minh, liệu đó có phải là những hình dung thiếu khả thi?
![TS. Trịnh Lê Anh tại Di tích Văn miếu Bắc Ninh. (Ảnh: NVCC)](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_194_51453269/bb4b293e1f70f62eaf61.jpg)
TS. Trịnh Lê Anh tại Di tích Văn miếu Bắc Ninh. (Ảnh: NVCC)
Chính sách du lịch “thông minh”: Cân bằng giữa tăng trưởng và phát triển bền vững
Từ năm 2023, việc mở rộng chính sách visa điện tử 90 ngày và nâng thời hạn tạm trú lên 45 ngày cho 13 quốc gia đã giúp thu hút lượng khách châu Âu đáng kể. Tuy nhiên, theo Báo cáo Chỉ số phát triển du lịch và lữ hành (TTDI) của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2023, Việt Nam xếp thứ 59 trên 119 quốc gia về năng lực cạnh tranh du lịch. Mặc dù đạt điểm mạnh ở một số hạng mục, Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong quản lý môi trường và phát triển du lịch bền vững.
Lấy ví dụ Sa Pa, với dân số khoảng 10.000 người, đã đón tiếp 2,7 triệu lượt khách trong năm 2018, tạo áp lực lớn lên hạ tầng và môi trường địa phương. Hậu quả của tình trạng quá tải này bao gồm nguy cơ ô nhiễm nguồn nước và mai một văn hóa bản địa.
Để giải quyết vấn đề tương tự, Iceland đã áp dụng hệ thống đặt chỗ trước cho các điểm du lịch nhạy cảm như suối nước nóng Blue Lagoon, nhằm kiểm soát lượng khách và bảo vệ môi trường. Việt Nam có thể tham khảo mô hình này để quản lý du lịch bền vững tại các điểm đến như Sa Pa. Mở rộng ra, có thể thấy Việt Nam cần thiết lập hành lang pháp lý về giới hạn khách tại các di sản, đồng thời phát triển sản phẩm thay thế để phân luồng khách du lịch trong mùa cao điểm hay các điểm đến trọng yếu.
Một vấn đề nữa là chính sách thuế cần ưu đãi mạnh cho “doanh nghiệp xanh”. Từ kinh nghiệm của một số quốc gia ưu đãi cho các doanh nghiệp du lịch, khách sạn, điểm đến sử dụng năng lượng tái tạo được giảm thuế; Việt Nam có thể áp dụng cơ chế tương tự, kết hợp xếp hạng CSR (trách nhiệm xã hội) thành tiêu chí cấp phép kinh doanh.
Du lịch có trách nhiệm: Khi cộng đồng địa phương là trung tâm
Theo Báo Sơn La, mô hình du lịch cộng đồng tại Mộc Châu (Sơn La) đã mang lại những kết quả tích cực, như tại bản Áng, xã Đông Sang, với 40 hộ gia đình tham gia kinh doanh homestay, từ năm 2020 đến nay đã đón trên 92.000 lượt khách, doanh thu ước đạt trên 100 tỷ đồng. Tại bản Tà Số 1 và Tà Số 2, xã Chiềng Hắc, nơi có trên 90% dân số là đồng bào dân tộc Mông, từ năm 2021 đến nay đã đón trên 40.000 lượt khách, doanh thu từ các hoạt động du lịch ước đạt trên 20 tỷ đồng. Thành công này cho thấy: trao quyền cho cộng đồng không chỉ bảo tồn văn hóa mà còn tạo sức hút du lịch khác biệt.
Tuy nhiên, thách thức hiện nay là đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại địa phương. Theo Đề án Phát triển du lịch cộng đồng tại Việt Nam của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, mục tiêu đến năm 2025 là có ít nhất 40% chủ cơ sở du lịch cung ứng dịch vụ du lịch cộng đồng được đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ quản lý du lịch; 30% lao động du lịch cộng đồng được bồi dưỡng, tập huấn và nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng phục vụ khách du lịch, trong đó có ít nhất 10% là lao động nữ; mỗi điểm du lịch cộng đồng có ít nhất 1 người có khả năng giao tiếp được một ngoại ngữ.
Việc đào tạo này nhằm trang bị cho người dân không chỉ kỹ năng giao tiếp và nghiệp vụ du lịch, mà còn kiến thức về quản lý rác thải và bảo tồn di sản phi vật thể, góp phần phát triển du lịch bền vững và bảo tồn văn hóa địa phương.
![Vẻ đẹp Sín Hồ, Lai Châu. (Nguồn: Internet)](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_194_51453269/4931da44ec0a05545c1b.jpg)
Vẻ đẹp Sín Hồ, Lai Châu. (Nguồn: Internet)
Chiến lược tiếp thị 4.0: Đánh thức tiềm năng thị trường ngách và định vị thương hiệu điểm đến
Để thu hút thêm du khách quốc tế, Việt Nam có thể triển khai các chiến lược quảng bá cụ thể nhằm tiếp cận những thị trường mới đang tăng trưởng mạnh mẽ về du lịch ra nước ngoài. Ví dụ, các quốc gia Bắc Âu, với người dân có khả năng chi trả cao và nhu cầu khám phá các điểm đến mới lạ, hoặc khu vực Trung Đông, nơi du khách đang tìm kiếm những trải nghiệm văn hóa phong phú và không gian thiên nhiên khác biệt, đều là những mục tiêu tiềm năng.
Thị trường Trung Đông - nơi có 150 triệu khách du lịch có khả năng chi trả cao đang bị bỏ ngỏ. Việc phát triển resort halal-certified (đạt chuẩn Hồi giáo) tại Nha Trang, Đà Nẵng, kết hợp spa trị liệu bằng thảo dược bản địa, có thể thu hút nhóm khách này. Ngoài ra, việc chú trọng đến các thị trường Đông Á hoặc Nam Á đang có tầng lớp trung lưu ngày càng lớn cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh quảng bá bản sắc văn hóa độc đáo của mình. Những lễ hội truyền thống, các món ăn đặc sản và những hình thức nghệ thuật dân gian sẽ là những yếu tố nổi bật, tạo ra sự khác biệt so với các điểm đến khác. Việc hợp tác với các nhà sáng tạo nội dung, các kênh truyền thông quốc tế và những người có tầm ảnh hưởng trong lĩnh vực du lịch sẽ giúp đưa hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với du khách nước ngoài.
Theo nghiên cứu của Morning Consult (2024), 22% người thuộc thế hệ Gen Z đã đặt chuyến đi sau khi thấy bài đăng từ các travel influencer về điểm đến đó. Ngoài ra, 88% người tiêu dùng Gen Z theo dõi ít nhất một travel influencer trên TikTok và 45% tin tưởng vào các khuyến nghị du lịch từ những người ảnh hưởng này.
Việt Nam đã triển khai chiến dịch “Live Fully in Vietnam” nhằm quảng bá du lịch quốc gia. Để tăng cường hiệu quả, việc hợp tác với các nền tảng như TikTok để tạo ra các thử thách như #TasteofVietnam có thể thu hút sự quan tâm rộng rãi.
Quan trọng hơn, đội ngũ làm du lịch cần được đào tạo bài bản để không chỉ thành thạo kỹ năng giao tiếp quốc tế mà còn hiểu rõ và trân trọng các giá trị truyền thống. Điều này không chỉ giúp phục vụ tốt hơn cho du khách mà còn góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa khi ngành du lịch phát triển.
Như vậy, Việt Nam có thể mở rộng thị trường du lịch quốc tế một cách bền vững, vừa thu hút được khách mới, vừa bảo tồn được những giá trị vốn có. Trong quá trình phát triển, chúng ta luôn cần nhắc nhau giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Do ranh giới mong manh giữa bảo tồn và phát triển không dễ nhận thức, đây là một việc “nói thì dễ, làm thì không phải là khó, mà là cực kỳ khó”.
![Du lịch xanh được nhiều người lựa chọn. (Ảnh: NVCC)](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_194_51453269/ede27d974bd9a287fbc8.jpg)
Du lịch xanh được nhiều người lựa chọn. (Ảnh: NVCC)
Để du lịch Việt vươn tới những đỉnh cao
Để biến Việt Nam thành “điểm đến không thể bỏ qua” như gợi ý của Lonely Planet, cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ cấp chính sách vĩ mô đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ ở cấp vi mô. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, thuộc nhóm ba quốc gia dẫn đầu về phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam Á và 50 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới.
Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện các giải pháp như hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển du lịch; phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch; phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá và xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam; ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý và phát triển du lịch. Mỗi bước đi phải lấy bền vững làm trọng tâm, biến cộng đồng thành chủ thể và tận dụng công nghệ để kể câu chuyện văn hóa đa sắc.
Du lịch không phải cuộc đua doanh số. Đó là hành trình gieo hạt - hạt giống của sự trân trọng di sản, kết nối con người và nuôi dưỡng tình yêu thiên nhiên. Chỉ khi làm được điều đó, Việt Nam mới thực sự tỏa sáng trên bản đồ du lịch thế giới.