Dự phòng lao tiềm ẩn – 'lá chắn' quan trọng cho người đang điều trị ARV

Người nhiễm HIV có nguy cơ chuyển từ lao tiềm ẩn sang lao bệnh cao gấp nhiều lần so với người không nhiễm, khiến việc dự phòng lao trở thành ưu tiên hàng đầu. Điều trị lao tiềm ẩn được ví như lá chắn bảo vệ, giúp giảm tới 90% nguy cơ phát bệnh nếu tuân thủ đủ liệu trình.

1. Vì sao lao tiềm ẩn dễ bùng phát thành lao bệnh ở người có HIV?

NỘI DUNG:

1. Vì sao lao tiềm ẩn dễ bùng phát thành lao bệnh ở người có HIV?

2. Lợi ích khi dùng thuốc dự phòng lao

3. Các phác đồ dự phòng hiện có

4. Thực tế nhiều người bỏ dở, cần động viên để hoàn thành liệu trình

Ở người bình thường, khi vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch có thể khống chế và giữ chúng ở trạng thái “ngủ yên”, gọi là lao tiềm ẩn.

Tuy nhiên, với người nhiễm HIV, hệ miễn dịch suy yếu, đặc biệt là sự sụt giảm số lượng tế bào CD4, vi khuẩn lao dễ dàng bùng phát, từ dạng tiềm ẩn chuyển thành lao bệnh hoạt động.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nguy cơ này ở bệnh nhân HIV cao gấp nhiều lần so với dân số chung: Bệnh nhân nhiễm HIV rất dễ bị mắc lao khi bị nhiễm lao - tỷ lệ này cao gấp 10% mỗi năm, trong khi người bình thường chỉ khoảng 10% trong cả cuộc đời từ nhiễm lao chuyển sang mắc lao.

Một khi lao tiềm ẩn chuyển thành lao bệnh, hệ quả rất nặng nề. Người bệnh không chỉ đối diện với nguy cơ tử vong cao hơn, mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ARV do phải phối hợp nhiều loại thuốc, dễ xảy ra tương tác và tác dụng phụ. Ngoài ra, lao bệnh còn làm tăng khả năng lây nhiễm cho cộng đồng, tạo gánh nặng y tế và xã hội.

Với người nhiễm HIV, vi khuẩn lao dễ dàng bùng phát, từ dạng tiềm ẩn chuyển thành lao bệnh hoạt động.

Với người nhiễm HIV, vi khuẩn lao dễ dàng bùng phát, từ dạng tiềm ẩn chuyển thành lao bệnh hoạt động.

Chính vì vậy, phòng tránh và điều trị lao tiềm ẩn là vấn đề sống còn với người nhiễm HIV. Đây là biện pháp chặn từ gốc, giảm nguy cơ bệnh bùng phát và bảo vệ người bệnh ngay từ khi chưa xuất hiện triệu chứng.

2. Lợi ích khi dùng thuốc dự phòng lao

Điều trị dự phòng lao mang lại lợi ích rõ ràng cho người nhiễm HIV. Khi được phát hiện lao tiềm ẩn và dùng thuốc đúng phác đồ, khả năng vi khuẩn lao bùng phát thành bệnh giảm mạnh. Theo BS. Nguyễn Văn Cử, Phó Chánh văn phòng Chương trình Chống lao Quốc gia, nếu bệnh nhân được điều trị đủ phác đồ, nguy cơ từ nhiễm lao sang mắc lao có thể giảm tới 90%. Đây là con số mang tính bước ngoặt trong việc giảm gánh nặng lao trên bệnh nhân HIV.

Lợi ích không chỉ dừng ở cá nhân mà còn lan rộng ra cộng đồng. Khi nguy cơ mắc lao giảm, đồng nghĩa với việc nguồn lây lao trong xã hội cũng được hạn chế. Điều này đặc biệt quan trọng ở Việt Nam – Quốc gia nằm trong nhóm có gánh nặng lao cao, nơi mà HIV và lao thường “đi đôi” và gây nhiều khó khăn cho y tế cộng đồng.

Ngoài ra, dự phòng lao còn giúp bệnh nhân duy trì hiệu quả của điều trị ARV. Không phải đối mặt với thêm một bệnh nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm, người bệnh có thể tuân thủ phác đồ ARV ổn định hơn, giảm tình trạng gián đoạn thuốc và hạn chế thất bại điều trị. Đây chính là “lá chắn” kép bảo vệ sức khỏe cho bệnh nhân.

Cuối cùng, dự phòng lao góp phần cải thiện chất lượng sống cho người nhiễm HIV. Thay vì phải đối diện với nguy cơ nhập viện, điều trị kéo dài và chi phí cao khi lao bùng phát, người bệnh được hưởng lợi ích từ một giải pháp đơn giản, ít tốn kém nhưng hiệu quả.

3. Các phác đồ dự phòng hiện có

Dự phòng lao giúp bệnh nhân HIV duy trì hiệu quả của điều trị ARV.

Dự phòng lao giúp bệnh nhân HIV duy trì hiệu quả của điều trị ARV.

Tại Việt Nam, hiện đã có nhiều lựa chọn phác đồ điều trị dự phòng lao phù hợp với người nhiễm HIV. Theo BS. Nguyễn Văn Cử, các phác đồ đang được triển khai bao gồm dùng thuốc hàng ngày liên tục trong 6 tháng, hoặc phác đồ ngắn hơn – 12 tuần, mỗi tuần uống 1 liều.

Phác đồ 6 tháng isoniazid (6H) là phương án truyền thống, đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm nguy cơ lao ở người nhiễm HIV. Người bệnh cần duy trì uống thuốc đều đặn mỗi ngày cho đến khi kết thúc liệu trình 6 tháng.

Ngoài ra, phác đồ 12 tuần isoniazid kết hợp rifapentine (3HP) cũng được triển khai. Với phác đồ này, bệnh nhân chỉ cần uống thuốc một lần mỗi tuần, tổng cộng 12 liều.

Dựa trên tình trạng sức khỏe, khả năng tiếp cận thuốc và các yếu tố liên quan khác, bác sĩ sẽ kê đơn theo liệu trình phù hợp với từng người bệnh. Điều quan trọng là bệnh nhân cần tuân thủ đầy đủ liệu trình để đạt được hiệu quả bảo vệ cao nhất.

4. Thực tế nhiều người bỏ dở, cần động viên để hoàn thành liệu trình

Mặc dù hiệu quả đã được chứng minh, nhưng tỷ lệ bệnh nhân HIV hoàn thành điều trị dự phòng lao vẫn chưa cao. Theo BS. Nguyễn Văn Cử, hiện chỉ có khoảng 70% người nhiễm HIV được tiếp cận điều trị dự phòng, và trong số này, chỉ 40 - 50% điều trị đủ liệu trình thành công. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều người đã bỏ dở giữa chừng.

Nguyên nhân có thể đến từ việc điều trị kéo dài, uống thuốc hàng ngày dễ gây quên liều hoặc chán nản. Một số bệnh nhân lo ngại về tác dụng phụ, trong khi những người khác phải đối mặt với khó khăn kinh tế, khoảng cách đi lại hoặc kỳ thị xã hội, khiến việc tuân thủ điều trị gặp trở ngại.

Chính vì vậy, bên cạnh việc kê đơn, bác sĩ và nhân viên y tế cần đóng vai trò tư vấn, động viên và theo sát người bệnh. Những buổi hẹn tái khám, nhắc nhở qua điện thoại, hoặc mô hình hỗ trợ đồng đẳng có thể giúp bệnh nhân duy trì động lực.

Hoàn thành đủ liệu trình không chỉ bảo vệ người bệnh khỏi lao mà còn góp phần thực hiện mục tiêu y tế công cộng – giảm lây lan và giảm tử vong do lao ở cộng đồng HIV. Do đó, mỗi cá nhân, gia đình và hệ thống y tế đều cần chung tay để đảm bảo bệnh nhân đi trọn vẹn hành trình dự phòng lao tiềm ẩn.

Mời bạn đọc xem tiếp video:

Hành trình vượt qua bóng tối của chàng trai nhiễm HIV |SKĐS

An Phương

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/du-phong-lao-tiem-an-la-chan-quan-trong-cho-nguoi-dang-dieu-tri-arv-169250925114518685.htm