Dự thảo Thông tư kiểm định chất lượng vừa rõ trách nhiệm vừa thúc đẩy CSGDĐH cải tiến liên tục
Theo đại diện một số CSGDĐH, dự thảo không chỉ quy định rõ trách nhiệm, mà còn khuyến khích trường ĐH cải tiến thực chất, tránh lãng phí nguồn lực.
Bộ Giáo dục và Đào tạo mới đây đã công bố Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học (Thông tư 12) với nhiều thay đổi quan trọng.
So với Thông tư 12, Dự thảo Thông tư mới đã điều chỉnh cả về bộ tiêu chuẩn lẫn phương thức đánh giá.
Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, sự thay đổi này thể hiện xu hướng tiếp cận quản trị hiện đại, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo, quản trị chiến lược và cải tiến liên tục. Đồng thời, việc đánh giá chất lượng mặc dù tinh gọn nhưng toàn diện hơn, tập trung vào kết quả và tác động thực tế của các hoạt động giáo dục đại học.
Phương án đánh giá có điều kiện và giảm số lượng thành viên Hội đồng đánh giá là hợp lý
Về cách đánh giá, Dự thảo Thông tư mới đề xuất 2 phương án: đánh giá có hoặc không có tiêu chí điều kiện. Đồng thời, thay đổi cách đánh giá các tiêu chuẩn, tiêu chí từ thang đánh giá 7 mức (tương ứng 7 điểm) sang 2 mức Đạt và Không đạt.
Về hoạt động tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học, Dự thảo Thông tư đề xuất Hội đồng tự đánh giá có số lượng thành viên là số lẻ và có ít nhất 9 thành viên, do Hiệu trưởng hoặc Giám đốc cơ sở giáo dục đại học quyết định thành lập. Quy định hiện hành yêu cầu tối thiểu 11 thành viên.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Ngô Đình Hoàng Diễm - Phó Trưởng phòng Phòng Khảo thí và Đảm bảo Chất lượng, Trường Đại học Lạc Hồng cho rằng, trong bối cảnh giáo dục đại học ngày càng hội nhập, việc Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Dự thảo Thông tư mới về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học là bước đi rất kịp thời và đúng đắn.
Theo cô Diễm, điểm mới nổi bật trong Dự thảo là bổ sung mức “Đạt có điều kiện” cho phép cơ sở giáo dục có tối đa 24 tháng để khắc phục những hạn chế. Song, phương án có tiêu chí điều kiện là lựa chọn hợp lý và cần thiết cho giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn này. Bởi việc đặt ra các tiêu chí cốt lõi tức tiêu chí điều kiện sẽ tạo ra một “sàn” chất lượng tối thiểu, buộc các cơ sở giáo dục phải tập trung nguồn lực vào những yếu tố sống còn như đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo. Cách làm này không chỉ thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh, mà còn tiệm cận với các chuẩn mực kiểm định của khu vực và quốc tế, giúp nâng cao uy tín của giáo dục đại học Việt Nam. Mặc dù có thể tạo ra thách thức ban đầu, nhưng đây là một bước đi chiến lược để đảm bảo chất lượng giáo dục bền vững.
Hơn nữa, cơ chế “Đạt có điều kiện” cũng là một bước đệm nhân văn, cho phép các cơ sở giáo dục đại học có thời gian để cải tiến và vươn lên đáp ứng các yêu cầu về đánh giá, kiểm định. Thay vì đánh giá “Không đạt” ngay lập tức, các trường được tạo điều kiện cải tiến trong khung thời gian rõ ràng. Từ đó, khuyến khích cải tiến thực chất, tránh lãng phí nguồn lực khi phải làm lại toàn bộ quy trình kiểm định.
Cô Diễm cũng bày tỏ, việc Dự thảo quy định Hội đồng tự đánh giá có ít nhất 9 thành viên, thay vì 11 thành viên như hiện nay thể hiện cách tiếp cận tinh gọn, đề cao tính hiệu quả thay vì hình thức.
Bởi điều quan trọng không nằm ở số lượng, mà ở sự đa dạng và năng lực của các thành viên. Đồng thời, yêu cầu bắt buộc tập huấn nghiệp vụ cho thành viên hội đồng cũng góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và khách quan của quá trình tự đánh giá. Vì vậy, có thể khẳng định rằng quy định mới theo Dự thảo Thông tư là phù hợp, miễn là việc lựa chọn thành viên được thực hiện minh bạch và bảo đảm tính đại diện.

Thạc sĩ Ngô Đình Hoàng Diễm - Phó Trưởng phòng Phòng Khảo thí và Đảm bảo Chất lượng, Trường Đại học Lạc Hồng. Ảnh NTCC.
Cùng chung quan điểm, Tiến sĩ Đỗ Khắc Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Hùng Vương (Phú Thọ) cũng cho rằng phương án quy định có một số tiêu chí điều kiện là hợp lý.
Bởi trong kiểm định chất lượng giáo dục, có những yếu tố nền tảng như: hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong, đội ngũ giảng viên đạt chuẩn, hay hệ thống quản trị và cơ sở vật chất tối thiểu. Nếu không quy định đây là tiêu chí bắt buộc, thì một cơ sở có thể “đạt” về tổng thể nhưng lại thiếu những nền tảng cốt lõi, dẫn tới không phản ánh đúng chất lượng và chưa bảo đảm niềm tin của xã hội.
Điểm này cũng hoàn toàn tương thích với Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT về kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã quy định có tiêu chí điều kiện. Như vậy, cả ở cấp cơ sở giáo dục lẫn chương trình đào tạo, chính sách kiểm định đều thống nhất nguyên tắc những tiêu chí nền tảng phải bắt buộc đạt.
Cũng theo thầy Thanh, việc quy định số lượng thành viên Hội đồng tự đánh giá tối thiểu 9 thay vì 11 như trước đây là bước đi phù hợp.
Đặc thù các trường đại học địa phương với quy mô đội ngũ có hạn, việc huy động 11 thành viên tham gia đầy đủ và đảm bảo chuyên môn sẽ không tránh khỏi những khó khăn. Do đó, Hội đồng tự đánh giá giảm số lượng xuống tối thiểu 9 thành viên sẽ giúp linh hoạt hơn trong tổ chức, nhưng vẫn đủ để bảo đảm tính đa chiều trong đánh giá.
Đồng thời, quy định số lẻ và tối thiểu 9 người vẫn duy trì được nguyên tắc tập thể, khách quan, giúp hạn chế tình trạng “ngang phiếu” trong thảo luận, nhưng không làm giảm chất lượng nếu thành phần hội đồng được lựa chọn đúng theo tiêu chuẩn.

Tiến sĩ Đỗ Khắc Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Hùng Vương (Phú Thọ). Ảnh website trường
Còn theo Tiến sĩ Lê Hồ Sơn - Hiệu Trưởng Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, việc quy định các tiêu chí điều kiện sẽ đảm bảo rằng những yêu cầu cốt lõi, mang tính nền tảng như: đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, chuẩn đầu ra phải được đáp ứng tối thiểu trước khi một cơ sở giáo dục đại học được công nhận đạt chuẩn. Điều này giúp tránh tình trạng các trường được xếp loại “đạt” nhờ điểm số trung bình cao, nhưng lại thiếu hụt ở những khía cạnh thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo và quyền lợi người học.
Đồng thời, việc chuyển từ thang điểm 7 mức sang Đạt/Không đạt cùng với bổ sung mức “Đạt có điều kiện” giúp đơn giản hóa quá trình đánh giá, giảm bớt sự phức tạp và tính chủ quan khi chấm điểm. Cơ chế “Đạt có điều kiện” cũng là giải pháp dung hòa, vừa khuyến khích các trường đại học có nhiều nỗ lực cải tiến, vừa tạo áp lực buộc phải khắc phục hạn chế trong thời hạn nhất định. Điều này đặc biệt phù hợp với các trường đại học đang trong quá trình chuyển đổi, có những điểm mạnh nổi bật, nhưng vẫn còn tồn tại một số yếu tố cần cải thiện.
Đặc biệt, cách đổi mới đánh giá này sẽ tạo nhiều thuận lợi cho cơ sở giáo dục đại học. Các trường sẽ có định hướng rõ ràng hơn về những điều kiện tối thiểu cần đáp ứng, từ đó tập trung đầu tư cho các tiêu chí thiết yếu thay vì dàn trải.

Tiến sĩ Lê Hồ Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Huế). Ảnh: NVCC.
Cần quy định rõ thời hạn khắc phục trước khi bị thu hồi giấy chứng nhận
Dự thảo nêu rõ các trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định và cơ quan quản lý trong việc giám sát sau đánh giá.
Cụ thể, giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học còn thời hạn giá trị bị thu hồi nếu việc công nhận kết quả đánh giá và cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học khi cơ sở giáo dục đại học không đáp ứng đủ các điều kiện theo Thông tư. Hoặc cơ sở giáo dục đại học trong giai đoạn được đánh giá không đáp ứng yêu cầu duy trì điều kiện bảo đảm chất lượng theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền.
Theo thầy Lê Hồ Sơn, đây là điều chỉnh cần thiết, kịp thời và mang tính ràng buộc cao.
Thứ nhất, việc bổ sung các trường hợp thu hồi giấy chứng nhận sẽ tăng tính nghiêm minh và thực chất của hoạt động kiểm định. Nếu chỉ dừng lại ở việc cấp giấy chứng nhận mà không có cơ chế hậu kiểm, nhiều cơ sở giáo dục có thể đạt chuẩn ở thời điểm đánh giá nhưng sau đó buông lỏng việc duy trì điều kiện bảo đảm chất lượng. Quy định mới buộc các trường phải duy trì liên tục các tiêu chí, tiêu chuẩn đã được công nhận, từ đó thúc đẩy xây dựng văn hóa chất lượng bền vững thay vì chỉ làm để “đạt chuẩn một lần”.
Thứ hai, việc xác định rõ trách nhiệm của từng bên liên quan (cơ sở giáo dục – tổ chức kiểm định – cơ quan quản lý nhà nước) là cần thiết để tránh tình trạng chồng chéo hoặc buông lỏng. Khi trách nhiệm và quyền hạn được phân định rõ, công tác giám sát sau đánh giá sẽ minh bạch, hiệu quả và tạo cơ chế giám sát đa chiều, giảm thiểu rủi ro tiêu cực trong kiểm định.
Thứ ba, cơ chế hậu kiểm và khả năng thu hồi giấy chứng nhận là biện pháp răn đe mạnh, đồng thời khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học duy trì hoạt động cải tiến liên tục. Đây cũng là thông điệp quan trọng đối với xã hội, người học và nhà tuyển dụng rằng, chất lượng được công nhận không phải là “vĩnh viễn”, mà phụ thuộc vào cam kết duy trì và phát triển thực chất.
Thầy Sơn cũng cho rằng, Dự thảo cần cụ thể hóa quy trình, tiêu chí và minh chứng để xác định một trường hợp “không đáp ứng yêu cầu duy trì điều kiện bảo đảm chất lượng”, tránh tình trạng áp dụng cảm tính.
Đồng thời, nên quy định rõ thời hạn khắc phục trước khi bị thu hồi giấy chứng nhận (ví dụ: 6–12 tháng) để tạo cơ hội cho các trường điều chỉnh, cải thiện.
Cùng với đó, nên thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo đảm và kiểm định chất lượng, trong đó công khai thông tin về tình trạng duy trì, kết quả hậu kiểm của các cơ sở giáo dục để tăng tính minh bạch, đồng thời hỗ trợ giám sát xã hội.
Ngoài ra, cần có cơ chế giám sát độc lập hoặc sự tham gia của bên thứ ba nhằm tăng tính khách quan trong đánh giá sau kiểm định.
Còn theo cô Ngô Đình Hoàng Diễm, đây là cách tiếp cận mới, nhấn mạnh kiểm định không chỉ dừng lại ở một kết quả tại thời điểm đánh giá, mà còn được xem như một quá trình liên tục.
Bên cạnh đó, việc xác định trách nhiệm của cả cơ sở giáo dục và tổ chức kiểm định trong khâu báo cáo định kỳ, cung cấp minh chứng cải tiến, cũng như khả năng được xem xét, đánh giá lại trong khoảng thời gian 12–24 tháng cho thấy cơ chế hậu kiểm đã được làm rõ ràng và cụ thể hơn.
Điểm tích cực là những điều chỉnh này có thể góp phần củng cố tính ràng buộc và duy trì nỗ lực cải tiến lâu dài của các cơ sở. Trong quá trình triển khai, nếu có thêm các hướng dẫn chi tiết về quy trình giám sát, cơ chế phối hợp và biện pháp hỗ trợ kỹ thuật cho những đơn vị còn hạn chế về nguồn lực thì sẽ càng thuận lợi, giúp chính sách vừa bảo đảm tính nghiêm minh, vừa khuyến khích cải tiến thực chất.

Trường Đại học Lạc Hồng là trường đại học đầu tiên ở Đông Nam Á đạt chuẩn chất lượng cấp cơ sở giáo dục theo tiêu chuẩn AUN-QA version 3.0. Ảnh minh họa: website trường.
Trong khi đó, thầy Đỗ Khắc Thanh cho rằng, việc bổ sung các trường hợp thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng và quy định rõ trách nhiệm, cơ chế hậu kiểm là cần thiết và hợp lý.
Điều này giúp nâng cao tính nghiêm túc và hiệu lực của công tác kiểm định. Không chỉ dừng lại ở việc “đạt” tại một thời điểm, các trường phải duy trì liên tục các điều kiện bảo đảm chất lượng theo cam kết, từ đó tạo niềm tin bền vững cho xã hội.
Mặt khác, việc quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định và cơ quan quản lý giúp rõ ràng về vai trò, tránh chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm, đặc biệt trong khâu giám sát sau đánh giá. Điều này phù hợp với xu hướng quốc tế, khi kiểm định không chỉ là “cấp chứng nhận”, mà còn là một quá trình đồng hành, cải tiến liên tục.
Góp ý thêm với Dự thảo, theo thầy Thanh, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng bộ tiêu chí hoặc hướng dẫn cụ thể về hậu kiểm, nêu rõ cơ sở giáo dục phải báo cáo những minh chứng gì, theo chu kỳ nào.
Đồng thời, có cơ chế cảnh báo hoặc khắc phục trong thời gian nhất định trước khi tiến tới thu hồi, nhằm bảo đảm tính công bằng và tạo động lực cải thiện thay vì chỉ xử lý mang tính chế tài.
Bên cạnh đó, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin/chuyển đổi số trong quản lý để theo dõi trực tuyến một số chỉ báo chất lượng, ví dụ như: tỉ lệ giảng viên đạt chuẩn, tỉ lệ việc làm của sinh viên, công bố khoa học,...giúp việc hậu kiểm minh bạch, khách quan và tiết kiệm nguồn lực.