Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai: Bài toán hội nhập và bản sắc
Theo Bộ GD&ĐT để đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, đến năm 2030, cả nước cần thêm 22.000 giáo viên tiếng Anh ở mầm non và tiểu học. Tuy nhiên, thiếu giáo viên không phải là thách thức duy nhất khi thực hiện chiến lược này.
Trăn trở của học sinh
Những lo ngại đưa tiếng Anh trở thành môn học bắt buộc từ lớp 1, đưa tiếng Anh vào mầm non dẫn đến việc tiếng Việt của trẻ sẽ “yếu” đi không phải không có cơ sở. Bởi mầm non, tiểu học là những năm đầu đời trẻ làm quen với ngôn ngữ và trau dồi vốn ngôn ngữ.
Việc vừa học tiếng Việt, vừa học tiếng Anh sẽ tạo áp lực và chất lượng chắc chắn không thể đảm bảo bằng việc chỉ dạy trẻ ngôn ngữ tiếng Việt. Chưa kể, khi dạy tiếng Việt vẫn có nhiều bất cập về chính tả, ngữ pháp, cách hành văn.

Học sinh trường tiểu học trong giờ tiếng Anh
Tại hội thảo “Kiến tạo giáo dục song ngữ - Bản sắc Việt Nam, năng lực toàn cầu”, Diệu Anh, học sinh lớp 10 Trường liên cấp Olympia, Hà Nội chia sẻ, sinh ra, lớn lên cùng công nghệ, hội nhập quốc tế, trong sự giao thoa mạnh mẽ giữa truyền thống và hiện đại, em và các bạn có thể dễ dàng kết nối với bạn bè ở khắp nơi trên thế giới. Nhưng đôi khi bản thân lại quên mất những điều tưởng chừng giản dị mà sâu sắc - như một câu ca dao hay chỉ là tiếng “dạ, vâng”.
Theo Diệu Anh, dù học trong môi trường song ngữ nhưng nhờ những bài học, những hoạt động và những trải nghiệm về văn hóa, lịch sử, môi trường sống của con người Việt Nam, bản thân tự khám phá giá trị văn hóa dân tộc không chỉ trên trang sách mà còn bằng sự chiêm nghiệm, đúc rút từ thực tế.
Các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Hàn... đã trở thành một phần quen thuộc trong đời sống của học sinh, sinh viên. Ở các không gian công cộng việc sử dụng ngôn ngữ nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều. Ngoại ngữ là chìa khóa mở ra cơ hội nghề nghiệp và học tập trong tương lai; là công cụ để ta có thể du học ở các nước phát triển, làm việc, hợp tác trong môi trường quốc tế.
“Tuy nhiên, sự phổ biến của các ngôn ngữ này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến bản sắc cá nhân. Nhiều bạn trẻ hiện nay thích nói chuyện thường ngày bằng tiếng Anh hơn là tiếng Việt, dần quên mất vẻ đẹp và sự phong phú của ngôn ngữ mẹ đẻ”, Diệu Anh nêu.
Nhiều người trẻ lo lắng nếu không cẩn trọng, có thể đánh mất bản sắc văn hóa - điều giúp Việt Nam trở nên khác biệt trong thế giới toàn cầu hóa. Thế hệ trẻ trong bối cảnh công nghệ phát triển như vũ bão hiểu rằng, cần giỏi ngoại ngữ để vươn ra thế giới, nhưng đồng thời phải giữ gìn và tự hào về tiếng Việt, văn hóa và lịch sử dân tộc.
Khi những giá trị truyền thống được kết hợp cùng tư duy sáng tạo và hội nhập, văn hóa Việt sẽ không chỉ được giữ lại mà còn phát triển, lan tỏa và sống động hơn bao giờ hết.
Hội nhập toàn cầu nhờ giá trị Việt
TS Nguyễn Nam, giảng viên Fulbright cho rằng, khi sử dụng tiếng Anh, bản sắc dân tộc và năng lực toàn cầu không mâu thuẫn mà bổ trợ cho nhau. Ông khẳng định, giỏi tiếng Anh là đáng quý, nhưng giữ tiếng Việt là niềm tự hào.
Theo TS Nguyễn Nam, tiếng Việt là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc. Người Việt có thể nói tiếng Anh để giao tiếp quốc tế nhưng không thể đánh mất khả năng cảm xúc bằng tiếng mẹ đẻ.
Bản sắc dân tộc là hành trình không đơn độc. Gia đình đóng vai trò gieo hạt, nhà trường nuôi dưỡng, rèn luyện, học sinh nở hoa. Học tiếng Việt để hiểu đất nước, từ đó có tình yêu Việt Nam, tạo cho các em một tinh thần yêu nước, cảm xúc dân tộc. Công dân toàn cầu là mang bản sắc dân tộc vào bức tranh đa sắc màu.
TS Nam khẳng định, giữ tiếng Việt là cách bảo tồn cách nhìn nhân sinh quan của người Việt. “Tiếng Anh để hội nhập nhưng cần có tâm hồn Việt đi cùng. Tâm hồn Việt chính là ngôn ngữ”, TS Nguyễn Nam nói.
TS Nguyễn Chí Hiếu, Giám đốc Học thuật Olympia chia sẻ, 12 năm du học, khoảnh khắc nhớ nhất là 11 đêm giao thừa xa nhà, ăn mì gói, xem Táo quân, hình dung Tết ở nhà mà rơi nước mắt.
“Nó khắc sâu hơn những khoảnh khắc vinh quang giành huy chương vàng hay thủ khoa tốt nghiệp. Đó cũng là lí do dù có cơ hội làm việc ở nước ngoài, tôi vẫn quay về Việt Nam. Điều cho chúng ta sự khác biệt với thế giới chính là Việt Nam”, TS Hiếu tâm sự.
Ông Hiếu cho rằng, giáo dục là đặt những viên sỏi vào trong túi, khi gặp biến cố, chỉ cần thò tay lấy, những viên sỏi đó sẽ giúp con người đi qua những chông chênh. Tiếng Anh, năng lực toàn cầu giúp TS Hiếu chinh phục các học bổng.
Từ trải nghiệm riêng và 17 năm giảng dạy tại Việt Nam, TS Hiếu mong muốn các bạn trẻ thực hiện phát triển song song dòng chảy của thời đại, làm chủ công nghệ, tiếng Anh và tri thức nhân loại để đối thoại bình đẳng với các cơ hội học tập, nghiên cứu và làm việc toàn cầu; giữ vững bản sắc Việt Nam, ngôn ngữ, văn hóa, tinh thần và giá trị Việt.
Nhưng những biến cố trong cuộc đời (ví dụ bố mẹ phá sản trong một tháng, phải đi làm để hỗ trợ bố mẹ…), năng lực tiếng Anh, kĩ năng toàn cầu không phải là phao cứu sinh. Điều giúp TS Hiếu có thể đứng vững trong cuộc sống là giá trị Việt Nam mà thầy cô, bố mẹ đã nuôi dưỡng trong nhiều năm.
TS Nguyễn Chí Hiếu nhấn mạnh, lưu giữ bản sắc Việt bắt đầu từ những cuộc hội thoại hàng ngày giữa cha mẹ và con cái về câu chuyện của thế hệ đi trước, lịch sử gia đình hay những cột mốc đáng nhớ của cha mẹ và con cái. Qua những cuộc trò chuyện này, trẻ dần hiểu về nguồn gốc, cội rễ và giá trị văn hóa của gia đình và dù có thêm ngôn ngữ nào, thì tiếng Việt vẫn nằm trong máu thịt.
Đào tạo, chuẩn hóa giáo viên
Một trong những mục tiêu quan trọng của ngành giáo dục trong thời gian tới là đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông đạt 30% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035.
Thảo luận tại các phiên họp, kì họp thứ 10, Quốc hội thứ XV, các đại biểu cho rằng, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục vào năm 2035 là một tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết. Nhưng để đạt được mục tiêu trên, cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.
Tặng bằng khen của T.Ư Đoàn cho học sinh đoạt giải tại cuộc thi giải Toán bằng tiếng Anh (Đấu trường Toán học châu Á - AIMO) năm 2024-2025 do Công ty Cổ phần Tiền Phong tổ chức. Ảnh: TRỌNG TÀI
Đại biểu Đoàn Thị Lê An (Đoàn Cao Bằng) bày tỏ, đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần đánh giá thẳng thắn những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất, nhân lực và môi trường triển khai, tập trung vào một số nhóm vấn đề.
Về cơ sở vật chất, đại biểu cho rằng đang có sự chênh lệch đầu tư giữa các vùng miền. Khu vực thuận lợi (các thành phố trực thuộc T.Ư) đã có nhiều trường tiên tiến, trường quốc tế, có mô hình dạy học các môn khoa học tự nhiên bằng tiếng Anh.
Khu vực nông thôn đồng bằng, vẫn còn khoảng 25-35% trường thiếu phòng học bộ môn đạt chuẩn để triển khai dạy học trực tuyến hỗ trợ tiếng Anh. Khu vực miền núi gần 70% trường phổ thông khi được đánh giá vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ…
Đại biểu cũng nêu điểm nghẽn lớn hiện nay là tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên tiếng Anh, nhiều địa phương thiếu hàng nghìn giáo viên ngoại ngữ đạt chuẩn. Như vậy, chỉ tiêu 100% vào năm 2035 là khả thi về mặt đường lối, nhưng đòi hỏi một cuộc cải cách lớn về đào tạo-tuyển dụng- đãi ngộ giáo viên, đặc biệt là giáo viên dạy môn học bằng tiếng Anh.
Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn (Đoàn TP Hải Phòng) chỉ ra một thách thức liên quan vấn đề bản sắc văn hóa, do vậy cần một sự chuyển biến nhận thức xã hội sâu sắc.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (Đoàn Lào Cai) đề nghị không cào bằng mà chia theo điều kiện thực tế từng vùng: vùng đặc biệt khó khăn áp dụng tỷ lệ 20%, vùng khó khăn 25%, các vùng còn lại 30%, khu vực đô thị có thể hơn chỉ tiêu này. Đại biểu cũng kiến nghị Nhà nước cần ưu tiên hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh và cấp kinh phí mua sắm thiết bị cho các vùng khó khăn.












