Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Hơn 1 triệu giáo viên cần được chuẩn hóa

Để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học từ năm 2030, ngoài việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên đang thiếu, việc tập huấn cho hơn 1 triệu giáo viên đang dạy các môn văn hóa không chuyên ngữ cũng là yêu cầu cấp thiết.

Xóa bỏ sự ngại ngùng

Theo PGS.TS Nguyễn Đức Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đón đầu chiến lược đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018, nhà trường đã tăng số lượng sinh viên học các chương trình dạy môn học bằng tiếng Anh. Hiện nay, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có 7 chương trình đào tạo đã triển khai gần 10 năm: Sư phạm Toán dạy bằng tiếng Anh, sư phạm Vật lí-tiếng Anh, sư phạm Sinh học-tiếng Anh, giáo dục mầm non, giáo dục Tiểu học…

Nhà trường chủ động nâng cao và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên dạy các môn học bằng tiếng Anh. Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã và tiếp tục thực hiện các chương trình bồi dưỡng giáo viên phổ thông dạy các môn bằng tiếng Anh.

PGS.TS Nguyễn Văn Thụ, Trưởng phòng Đào tạo, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 chia sẻ, trường chuẩn bị lực lượng từ năm 2013 bằng cách đưa tất cả đội ngũ giảng viên không chuyên ngữ đi học tiếng Anh, đạt chuẩn theo yêu cầu; liên kết với một tổ chức nước ngoài tập huấn cho giảng viên phương pháp dạy các môn học bằng tiếng Anh; phối hợp với Hội đồng Anh Việt Nam bồi dưỡng nghiệp vụ cho giảng viên dạy học bằng tiếng Anh và có cấp chứng chỉ.

Khi đội ngũ đã đầy đủ, trường xây dựng chương trình đào tạo. Số tín chỉ đối với những ngành đào tạo bằng tiếng Anh tăng lên khoảng 40%, trong đó, tăng cường tiếng Anh cơ bản và tiếng Anh chuyên ngành cho giảng viên, cũng như tăng số tín chỉ tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên. Năm 2015, 2 ngành dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh đó là sư phạm Toán, sư phạm Vật lí được đào tạo thí điểm. Năm 2016 mở rộng thêm giáo dục mầm non. Đến nay, trường có thêm giáo dục tiểu học, sư phạm Hóa, sư phạm Sinh.

PGS. Nguyễn Văn Thụ khẳng định, giáo sinh những ngành này tốt nghiệp đủ tự tin dạy các môn chuyên ngành bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, thời gian qua, hệ thống các trường tư thục song ngữ mở ra nhiều nên gần như sinh viên tốt nghiệp đều làm việc tại đây.

Đối với hơn 1 triệu giáo viên đang giảng dạy các môn không chuyên ngữ, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu của chiến lược, theo PGS. Nguyễn Văn Thụ, cơ quan quản lí cần phải quyết liệt vào cuộc. Đầu tiên phải giúp giáo viên vượt qua ngại ngùng ban đầu (ngại đi học, ngại nói…). Quá trình bồi dưỡng, phải tạo ra được môi trường ngoại ngữ sống. Thực tế, trước đây, khi bồi dưỡng ngoại ngữ cho giáo viên, chủ yếu thực hiện ngữ pháp, hàn lâm… không phải ngôn ngữ sử dụng hằng ngày. Phương pháp đào tạo bồi dưỡng phải đi vào thực tế, tăng môi trường sống của ngoại ngữ. Nếu vẫn đi chuyên sâu về ngôn ngữ thì không có hiệu quả.

Giải pháp đồng bộ

Thách thức khi triển khai đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học còn là câu chuyện tiếng Anh thực chất là thêm một ngoại ngữ nữa đối với học sinh dân tộc thiểu số (tiếng Việt là “ngoại ngữ” một). Cùng với đó là những lo lắng về việc dạy tiếng Việt trong trường học sẽ bị giảm vai trò.

Ông Nguyễn Tiến Trình, Tổng Giám đốc CTCP Giáo dục iSMART cho rằng, đây là một vấn đề thực tế và cũng là một trong những vấn đề cốt lõi nhất khi triển khai đề án trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ-nơi mà tiếng Việt đóng vai trò “ngôn ngữ chung” của quốc gia, đồng thời các ngôn ngữ dân tộc thiểu số là di sản văn hóa vô giá cần được gìn giữ.

 Học sinh Trường Tiểu học Mồ Dề, tỉnh Lào Cai (huyện Mù Cang Chải, Yên Bái cũ) học tiếng Anh qua sự hỗ trợ trực tuyến của giáo viên tại Hà NôịẢnh: NGHIÊM HUÊ

Học sinh Trường Tiểu học Mồ Dề, tỉnh Lào Cai (huyện Mù Cang Chải, Yên Bái cũ) học tiếng Anh qua sự hỗ trợ trực tuyến của giáo viên tại Hà NôịẢnh: NGHIÊM HUÊ

Trong bối cảnh đó, việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai phải được thực hiện một cách linh hoạt, công bằng và tôn trọng bản sắc văn hóa. Nếu không có cách tiếp cận phù hợp, chúng ta rất dễ rơi vào tình trạng áp đặt ngôn ngữ, khiến trẻ em vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số hoặc nhóm yếu thế bị bỏ lại phía sau.

Ông Trình khẳng định, tiếng Anh không thể thay thế tiếng Việt, mà phải song hành và hỗ trợ nhau. Trước hết, cần khẳng định rằng tiếng Việt vẫn luôn là nền tảng của giáo dục quốc dân. Tiếng Anh là công cụ để mở rộng tri thức và hội nhập quốc tế, không thể và không nên thay thế vai trò của tiếng Việt trong việc hình thành tư duy, nhân cách và bản sắc Việt Nam. Dạy tiếng Anh không có nghĩa là giảm vai trò của tiếng Việt, mà là giúp học sinh Việt Nam có thêm một chìa khóa để hiểu sâu hơn về ngôn ngữ, văn hóa và thế giới.

Ông Trình cho rằng, để giữ gìn đa dạng văn hóa, giáo dục phải mang tính dung hợp và công bằng. Việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai không thể chỉ nhìn ở góc độ ngôn ngữ học, mà còn là câu chuyện về công bằng xã hội và bảo tồn bản sắc dân tộc.

Ở những vùng có học sinh dân tộc thiểu số, cần củng cố năng lực tiếng Việt trước khi dạy tiếng Anh, để các em có nền tảng ngôn ngữ vững chắc. Đồng thời, nên xây dựng khung đánh giá năng lực đa ngữ (Việt, Anh, ngôn ngữ dân tộc), giúp địa phương xác định đúng năng lực xuất phát của học sinh, từ đó lựa chọn lộ trình và phương pháp phù hợp. Khung này không chỉ giúp đánh giá khách quan, mà còn thể hiện tinh thần tôn trọng đa dạng ngôn ngữ và văn hóa của Việt Nam.

Ông Trình cho rằng, để giữ gìn đa dạng văn hóa, giáo dục phải mang tính dung hợp và công bằng. Việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai không thể chỉ nhìn ở góc độ ngôn ngữ học, mà còn là câu chuyện về công bằng xã hội và bảo tồn bản sắc dân tộc.

Khi học sinh được học trong môi trường an toàn về văn hóa và ngôn ngữ, các em sẽ coi tiếng Anh là cơ hội mở rộng thế giới, chứ không phải mối đe dọa làm mất bản sắc. Ứng dụng công nghệ và hệ sinh thái số để hỗ trợ vùng khó cũng là giải pháp cần lưu tâm.

Một yếu tố quan trọng để thu hẹp khoảng cách vùng miền là xây dựng hệ sinh thái số hỗ trợ học tập ngôn ngữ, bao gồm thư viện số, bài giảng số và nền tảng AI học tập thông minh. Nhờ đó, học sinh ở vùng xa có thể học tiếng Anh hoặc các môn học bằng tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi, ngay cả khi thiếu giáo viên trực tiếp. Công nghệ cũng hỗ trợ giáo viên địa phương bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ và sư phạm hiện đại, tạo môi trường học tập bình đẳng hơn giữa miền núi và đô thị.

Nghiêm Huê

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/dua-tieng-anh-tro-thanh-ngon-ngu-thu-hai-trong-truong-hoc-hon-1-trieu-giao-vien-can-duoc-chuan-hoa-post1802184.tpo