Đừng đi xét nghiệm miễn dịch Covid-19, vì không có ý nghĩa
Thời gian gần đây nhiều người đổ xô đi xét nghiệm kháng thể đối với SARS-CoV-2 sau khi đã nhiễm bệnh hoặc sau tiêm vắc xin phòng Covid 19. Điều này thật sự không cần thiết và không có ý nghĩa.
Bởi vì bằng chứng hiện có cho thấy, những người đã được tiêm phòng đầy đủ và những người đã bị nhiễm SARS-CoV-2 trước đó đều có nguy cơ lây nhiễm tiếp theo ở mức độ thấp trong ít nhất 6 tháng. Hiện tại không đủ dữ liệu để xác định ngưỡng hiệu giá kháng thể một cá nhân được bảo vệ khỏi nhiễm trùng. Tại thời điểm này, không có xét nghiệm nào được Cơ quan quản lý Thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép hoặc phê duyệt có thể sử dụng để xác định một người có được bảo vệ khỏi nhiễm trùng hay không.
ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH BAN ĐẦU ĐỐI VỚI NHIỄM SARS-COV-2
SARS-CoV-2 xâm nhập vào tế bào bằng cách liên kết với thụ thể men chuyển angiotensin-2 (ACE-2) trên bề mặt tế bào thông qua protein đột biến của virus. Các xét nghiệm huyết thanh hiện có sẵn đo lường cả việc sản xuất tổng thể các kháng thể chống lại các kháng nguyên SARS-CoV-2 (kháng thể liên kết) và khả năng vô hiệu hóa virus SARS-CoV-2 (kháng thể trung hòa).
Các kháng nguyên được đánh giá bao gồm protein đột biến (S), vùng liên kết thụ thể (RBD) của protein đột biến và lõi nucleocapsid (N). Các kháng thể IgM, IgA và IgG do cơ thể sinh ra có thể chống lại bất kỳ kháng nguyên nào trong số này. Các kháng thể liên kết huyết thanh với S, RBD và các kháng thể trung hòa đều được chứng minh là có tương quan với việc bảo vệ chống lại nhiễm trùng SARS-CoV-2 có triệu chứng.
Nhiễm SARS-CoV-2 gây ra phản ứng miễn dịch tế bào và dịch thể mạnh mẽ. Kháng thể IgM, IgA và IgG được phát hiện trong máu 5 - 15 ngày sau khi khởi phát triệu chứng, IgM đạt đỉnh trong vài tuần, sau đó giảm xuống dưới giới hạn có thể phát hiện được từ 2 đến 3 tháng sau khi nhiễm bệnh. Các kháng thể IgA cũng giảm nhanh chóng không thể phát hiện được trong vòng 3 tháng đầu. Các kháng thể IgG bền hơn, mặc dù sự suy yếu cũng được ghi nhận. Tế bào B và tế bào T trong bộ nhớ đặc hiệu SARS-CoV-2 cũng bắt đầu xuất hiện trong tháng đầu tiên sau khi nhiễm bệnh.
Phần lớn những người bị nhiễm SARS-CoV-2 tạo ra kháng thể chống SARS-CoV-2 với tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh là 90% hoặc cao hơn. Một nghiên cứu dựa trên dân số lớn cho thấy tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh thấp hơn là 76%, tuy nhiên, trong số những người không chuyển đổi huyết thanh trong nghiên cứu này, chỉ có 21% là có triệu chứng. Nhiều yếu tố góp phần vào mức độ đáp ứng miễn dịch gắn kết sau khi bị nhiễm trùng. Hiệu giá kháng thể trung hòa và liên kết đều tăng nhanh hơn và đạt đỉnh cao hơn ở những người bị Covid-19 nặng hơn. Những người bị nhiễm SARS-CoV-2 có triệu chứng thường có hiệu giá kháng thể cao hơn những người không có triệu chứng, những người nhập viện có hiệu giá kháng thể cao hơn những bệnh nhân ngoại trú. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh mối tương quan giữa giá trị ngưỡng chu kỳ (Ct) và hiệu giá kháng thể, với giá trị Ct thấp hơn có liên quan đến hiệu giá kháng thể cao hơn ở cấp độ quần thể.
Hầu hết các nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa giới tính và mức độ gắn kết đỉnh hoặc hiệu giá kháng thể trung hòa. Tăng tuổi có liên quan đến giảm khả năng chuyển đổi huyết thanh nhưng hiệu giá kháng thể đỉnh cao hơn ở những người chuyển đổi huyết thanh. Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh thấp hơn cũng đã được báo cáo ở những người có khối u ác tính về huyết học hoặc đang dùng một số loại thuốc ức chế miễn dịch.
ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH BAN ĐẦU ĐỐI VỚI TIÊM CHỦNG
Tính đến ngày 28-10-2021, khoảng 92% người đã được tiêm phòng ở Hoa Kỳ đã nhận được một trong hai loại vắc xin mRNA được FDA chấp thuận hoặc cho phép (Pfizer và Moderna), 8% nhận được véc tơ Adenovirus vắc xin (Janssen). Cả hai loại vắc xin đều được thiết kế để tạo ra phản ứng miễn dịch chống lại protein đột biến cần thiết để liên kết, dung hợp và xâm nhập tế bào SARS-CoV-2. Do đó, tiêm chủng gây ra sự sản sinh các kháng thể chống S, chống RBD và các kháng thể trung hòa trong máu, nhưng không phải là các kháng thể kháng N. Tương tự như nhiễm trùng, vắc xin tạo ra sớm các kháng thể IgA, IgM và IgG trong huyết thanh, đồng thời tạo ra các phản ứng tế bào B và T có trí nhớ lâu dài.
Trong các phân tích tính sinh miễn dịch được hoàn thành trong quá trình thử nghiệm vắc xin pha I và II, 100% người tham gia đã có kháng thể liên kết và trung hòa sau khi tiêm vắc xin Pfizer-BioNTech và Moderna, 90% người tham gia đã có kháng thể liên kết và trung hòa sau khi tiêm vắc xin Janssen. Tương tự như nhiễm trùng, phản ứng miễn dịch này có thể giảm ở những người lớn tuổi và bị ức chế miễn dịch. Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh do vắc xin giảm đã được báo cáo ở những người đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch, sau ghép tạng và bị ung thư máu. Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng những người từ 65 - 80 tuổi trở lên có hiệu giá kháng thể kháng S và trung hòa đỉnh thấp hơn đáng kể sau khi tiêm chủng so với những người dưới 65 tuổi. Đây là mối quan tâm đặc biệt do nguy cơ mắc bệnh nặng gia tăng ở các nhóm dân số già hơn và bị ức chế miễn dịch.
MỐI TƯƠNG QUAN CỦA CÁC CHỈ SỐ ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH VỚI BẢO VỆ
Nhiều nghiên cứu về mối tương quan bảo vệ đã chứng minh hiệu giá kháng thể cao hơn có liên quan đến việc giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 có triệu chứng tiếp theo. Dữ liệu từ cả thử nghiệm hiệu quả của vắc xin AstraZeneca và Moderna pha 3 đã chứng minh rằng hiệu giá định lượng của kháng thể kháng S IgG, kháng RBD IgG, kháng thể trung hòa SARS-CoV-2 đều tương quan với việc bảo vệ chống lại nhiễm trùng có triệu chứng, trong đó kháng thể trung hòa có mối tương quan mạnh nhất trong cả hai nghiên cứu này. Đáng lưu ý, mức độ kháng thể liên quan đến khả năng bảo vệ chống lại bệnh nặng thấp hơn nhiều so với mức cần thiết để bảo vệ chống lại nhiễm trùng, với chỉ 3% của mức kháng thể phục hồi trung bình tương ứng với 50% khả năng bảo vệ chống lại bệnh nặng.
Những nghiên cứu này, cùng với các nghiên cứu đã đề cập ở trên, cho thấy rằng, mặc dù mức độ phản ứng của kháng thể sau khi nhiễm trùng hoặc tiêm chủng có tương quan với khả năng bảo vệ. Tuy nhiên, kết quả xét nghiệm kháng thể (đặc biệt khi không được tiêu chuẩn hóa hoặc định lượng) chỉ cung cấp một phần hình ảnh về phản ứng miễn dịch của một cá nhân. Tại thời điểm này, không có xét nghiệm kháng thể cụ thể hoặc ngưỡng kháng thể có thể xác định nguy cơ lây nhiễm tiếp theo của một cá nhân.
CDC tiếp tục khuyến nghị tiêm vắc xin Covid-19 cho tất cả những người đủ điều kiện, bao gồm cả những người đã bị nhiễm SARS-CoV-2 trước đó. Khả năng miễn dịch được cung cấp bởi vắc xin và nhiễm trùng trước đó đều cao nhưng không hoàn toàn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiệu giá kháng thể tương quan với khả năng bảo vệ ở cấp độ quần thể, nhưng hiệu giá bảo vệ ở cấp độ cá thể vẫn chưa được biết. Trong khi có rất nhiều hiệu giá kháng thể để đáp ứng với việc nhiễm SARS-CoV-2, việc hoàn thành loạt vắc xin chính, đặc biệt là với vắc xin mRNA, thường dẫn đến phản ứng kháng thể ban đầu nhất quán hơn và hiệu giá cao hơn.
Đối với một số dân số nhất định, chẳng hạn như người già và suy giảm miễn dịch, mức độ bảo vệ có thể giảm sau khi tiêm chủng và nhiễm trùng. Bằng chứng hiện tại chỉ ra rằng mức độ bảo vệ có thể không giống nhau đối với tất cả các biến thể của virus. Không có đủ dữ liệu về mối liên quan đến miễn dịch tại thời điểm này ở những người bị nhiễm trùng rất nhẹ, không có triệu chứng hoặc trẻ em. Bằng chứng về miễn dịch và dịch tễ học ngày càng tăng cho thấy tiêm chủng sau khi nhiễm trùng giúp tăng cường đáng kể khả năng bảo vệ và làm giảm hơn nữa nguy cơ tái nhiễm.
THỜI GIAN BẢO VỆ SAU TIÊM CHỦNG
Bằng chứng vẫn đang được xem xét về thời gian bảo vệ sau khi tiêm chủng. Sử dụng động học kháng thể, một mô hình dự đoán rằng hiệu quả của vắc xin ban đầu là 90% có thể sẽ giảm xuống còn khoảng 70% vào khoảng 250 ngày sau khi tiêm chủng, không tính đến các yếu tố khác như các thành phần không phải huyết thanh của phản ứng miễn dịch hoặc tác động của các biến thể lưu hành mới.
Pfizer-BioNTech đã báo cáo hiệu quả tổng thể của vắc xin là 91% chống lại nhiễm trùng và 97% đối với bệnh nặng 6 tháng sau khi tiêm vắc xin, mặc dù hiệu quả chống lại nhiễm trùng giảm dần từ 96% sau 7 ngày - 2 tháng, xuống 84% khi 4 - 6 tháng. Moderna đã báo cáo hiệu quả 93% ở mức trung bình 5 tháng sau khi tiêm chủng, mà không có thêm chi tiết về mức giảm hiệu quả theo thời gian. Hiệu quả vắc xin giảm có thể phản ánh sự kết hợp giữa hiệu giá kháng thể suy yếu và giảm khả năng trung hòa trong bối cảnh lưu hành rộng rãi các biến thể có khả năng thoát miễn dịch một phần. Đáng chú ý, nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hiệu quả của vắc xin chống lại việc nhập viện và hoặc bệnh nặng tiếp tục cao, dao động từ 84% - 96%, cho đến 6 tháng sau khi tiêm chủng.
KẾT LUẬN: KHÔNG CẦN TỐN TIỀN XÉT NGHIỆM
Tiêm vắc xin cho những cá nhân đã bị nhiễm bệnh trước đó giúp tăng cường đáng kể phản ứng miễn dịch của họ và làm giảm hiệu quả nguy cơ lây nhiễm tiếp theo, bao gồm cả việc gia tăng sự lưu hành của nhiều biến thể lây nhiễm hơn.
Mặc dù biến thể Delta và một số biến thể khác đã cho thấy khả năng chống lại sự trung hòa của cả huyết thanh sau nhiễm trùng và sau tiêm chủng tăng lên trong các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, việc giảm hiệu quả quan sát được là rất khiêm tốn, với khả năng bảo vệ mạnh mẽ tiếp tục chống lại việc nhập viện, bệnh nặng và tử vong.
Hiệu giá kháng thể tương quan với sự bảo vệ ở cấp độ quần thể; tuy nhiên, dữ liệu hiện không đủ để xác định ngưỡng hiệu giá kháng thể cho biết một cá nhân có được bảo vệ khỏi nhiễm trùng hay không. Tại thời điểm này, không có xét nghiệm nào được FDA cho phép hoặc phê duyệt mà các nhà cung cấp hoặc công chúng có thể sử dụng để xác định một cách đáng tin cậy xem một người có được bảo vệ khỏi nhiễm trùng hay không. CDC sẽ tiếp tục theo dõi và đánh giá các bằng chứng khoa học đang phát triển trong các lĩnh vực này và cập nhật các khuyến nghị cho phù hợp.
BSCK2 LÊ ĐĂNG NGẠN
(Cập nhật tài liệu của CDC Hoa Kỳ ngày 05 tháng 01 năm 2022)