Đường đến hòa bình
'Không có gì quý hơn độc lập, tự do' là một chân lý bất tuyệt. Trong những ngày mùa xuân 1975 lịch sử, mỗi người lính có mặt giữa những đoàn quân từ mọi miền tiến về Sài Gòn đều mang trong mình mệnh lệnh của Bác Hồ, thể hiện ý chí của toàn dân tộc. Đó là khát vọng vĩ đại của một quốc gia từng phải chống lại biết bao kẻ thù xâm lược trong hành trình 4000 năm lịch sử, đã ngấm sâu vào lòng của mỗi người lính, người dân trên khắp mọi miền đất nước mang hình chữ S...

Hợp luyện chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Ảnh: VTC News
Khát vọng thiêng liêng ấy, khi đối diện với sự tồn vong của Tổ quốc đã được nhân lên thành sức mạnh vô biên. Mùa xuân 1975, từ hậu phương lớn miền Bắc hay khúc ruột miền Trung, từ rừng núi Tây Nguyên hay miệt sông nước Cửu Long cùng với những cánh quân chủ lực và những đoàn dân yêu nước giữa lòng các đô thị, khát vọng ấy đã biến thành một trận cuồng phong cùng tràn về một hướng. Toàn dân tộc xốc tới trong chiến dịch cuối cùng, chiến dịch mang tên vị lãnh tụ kính yêu. Trong trận đánh kết thúc 30 năm kháng chiến trường kỳ, cùng với cây súng trong tay, mỗi trái tim chảy dòng máu Việt đều mang theo lời hiệu triệu của Bác Hồ kính yêu và vang vọng những bản hùng ca từ thời cha ông. Trong dòng cảm xúc “Tiến về Sài Gòn” (nhóm nhạc sĩ: Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng) theo nhịp hùng binh có tiếp dòng cảm khái của Tướng quân Lý Thường Kiệt thời tổ tiên ta chống giặc Tống xâm lược từng vang lên trong bài thơ Thần bên dòng Như Nguyệt: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Vọng âm cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược từ thế kỷ 15 trong Bình Ngô Đại Cáo của Ức Trai Nguyễn Trãi cũng trở về thúc giục bước chân những đoàn quân thần tốc: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/ Voi uống nước, nước sông phải cạn/ Đánh một trận, sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận, tan tác chim muông/ Cơn gió to trút sạch lá khô/ Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ...”. Kế thừa truyền thống bất khuất và sức mạnh kết tinh từ thuở Hùng Vương dựng nước, Chiến dịch Hồ Chí Minh, trận chiến cuối cùng mang trong mình dòng thác lũ tiến công của hào khí Đông A khi vua tôi nhà Trần ba lần chiến thắng Nguyên - Mông; của quân dân Đại Việt trong các cuộc kháng Tống, chống Minh cùng bước chân thần tốc của đoàn đại hùng binh Quang Trung ngược ra phía Bắc đập tan hai mươi vạn quân Thanh. Chiến dịch mang tên Người cũng là sự tiếp nối, kế thừa đường lối chiến lược trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 và 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp...
* * *
Hồi cố về 50 năm trước, ngày 7/4/1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận giải phóng miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng!”. Ngày 8/4/1975, Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập, Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy; các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện làm Phó Tư lệnh; đồng chí Lê Ngọc Hiền làm quyền Tham mưu trưởng. Từ hậu phương lớn miền Bắc, 230.000 tấn vật chất, kỹ thuật; trong đó, riêng 11 ngày chuẩn bị nước rút cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, từ miền Bắc đã chuyển vào miền Đông Nam Bộ 11.000 tấn vật chất các loại. Ở chiến trường miền Nam, hậu cần Miền đã huy động gần 64.000 dân công hỏa tuyến vận chuyển đạn, gạo, thực phẩm vào các kho dữ trữ chiến dịch trên năm hướng. Thực hiện quân lệnh thiêng liêng của Đại tướng Tổng Tư lệnh, tình hình chuyển biến ngày càng mau lẹ với quyết tâm cao nhất, các cánh quân, các lực lượng đã đồng loạt tấn công địch từ tất cả các hướng. Ngày 22/4/1975, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã điện chỉ đạo Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh: “Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không thể để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi về chính trị, quân sự. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn...”. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch, ngày 27/4, các hướng sẽ đồng loạt tiến công vào Sài Gòn, tuy nhiên, lúc 17 giờ ngày 26/4, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu mở màn khi quân ta đã áp sát các cơ quan đầu não địch và nổ súng tấn công trên tất cả các hướng, từ ngoài đánh vào phối hợp cùng các lực lượng nổi dậy trong lòng đô thị. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ chiến thắng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo tin Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Tổng thống Dương Văn Minh và nội các đầu hàng cách mạng không điều kiện.
Ngày 30/4/1975, từ những bước chân thần tốc mang theo ý chí, khát vọng và niềm tin không gì lay chuyển nổi của những người con Việt Nam yêu nước, với chiến thắng vĩ đại, Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh - miền Nam thân yêu đã trở về trong lòng Tổ quốc. Những dòng sông đều xuôi về biển cả. Dù phải trải qua muôn nẻo đường chiến tranh, mất mát, hi sinh nhưng đích đến của mọi người dân Việt Nam là điểm hẹn của hòa bình, của độc lập, tự do và hạnh phúc. Từ đó, non sông liền một dải, đất nước thống nhất và lòng người Việt Nam đã hợp thành một khối. Trong ngày toàn thắng, những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tuyên bố, đây là chiến thắng chung của cả dân tộc Việt Nam...
* * *
Từ Thủ đô Hà Nội tới TP Hồ Chí Minh có khoảng cách 1.723 km, giờ đây, từ điểm đi sân bay Nội Bài tới đích đến phi trường Tân Sơn Nhất chỉ xấp xỉ hai giờ bay trên bầu trời tự do. Thế nhưng, để có hai tiếng đồng hồ được vi vu trong không gian bình yên tuyệt vời của hòa bình, cả dân tộc Việt Nam đã mất tới 30 năm từ điểm mốc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 21 năm đằng đẵng chiến đấu, với biết bao xương máu của “lớp cha trước lớp con sau” trong một cuộc hành trình ngút trời lửa đạn.
Nếu chúng ta có thêm một khoảng lùi lịch sử trở về cuộc đấu tranh bền bỉ từ điểm mốc năm 1858, khi liên quân thực dân Pháp và Tây Ban Nha nổ những phát đại bác đầu tiên lên bờ biển Đà Nẵng, chính thức xâm lược đất nước ta thì hành trình đấu tranh bền bỉ của cả dân tộc Việt Nam đã kéo dài tới 117 năm. Hơn một thế kỷ mới có được ngày nước nhà hoàn toàn thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày lịch sử trọng đại của toàn dân tộc, 30/4/1975. Để có một cuộc trùng phùng vĩ đại, cả dân tộc Việt Nam đã phải trải qua một quãng đường dài với vô vàn chiến thắng vinh quang và cả biển rộng sông dài uất hận, đau thương.
Để có một “Mùa xuân đầu tiên”, khúc ca vui trong cảm thức nghẹn ngào theo điệu valse dìu dặt của nhạc sĩ Văn Cao, thì chúng ta đã có biết bao bản hùng ca, hành khúc và những khúc nhạc đau thương chiêu hồn tử sĩ cất lên trên khắp dãy Trường Sơn khói lửa, giữa miền bưng biền Cửu Long hay miền Bắc hậu phương lớn vừa dựng xây, kiến thiết vừa chắc tay súng chiến đấu dưới mưa bom bão đạn kẻ thù. Cuộc kháng chiến thần thánh, lấy muôn vàn gian khổ, hi sinh dựng đường đến hòa bình. Biết bao máu và nước mắt đã ngập tràn trên khắp núi rừng, đồng ruộng, xóm làng, đường phố Việt Nam mới có được một Tổ quốc thân yêu nối liền một dải. Bởi vậy, cứ mỗi dịp nhớ về những tháng ngày Đại thắng mùa Xuân, trong lòng tôi lại ngân nga những giai điệu, ca từ da diết của người nhạc sĩ tài hoa, người viết nên bản Quốc Ca từ trong máu lửa, để tiếp dẫn cho dòng cảm xúc hạnh phúc vô bờ trong ngày hội non sông thống nhất: “Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên/ Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm/ Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người...”.
Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/chinh-tri/202504/duong-den-hoa-binh-5da386a/