Đường hoa rực rỡ
Tháng chạp. Những đợt gió mùa đông bắc nối đuôi nhau tràn về. Rét tái rét tê. Lâu lắm rồi năm nay mới lại rét đến vậy. Mấy hôm nữa là Tết ông Táo rồi. Tiếng người đi chợ sớm mai ồn ào. Mọi người bàn tán rôm rả, xoay quanh chủ đề sắm Tết. Vừa dọn quán bán hàng, bà Tịch vừa lắng nghe mọi người nói chuyện. Quán của bà nằm ở ngay cổng làng nên bao nhiêu chuyện trong làng, ngoài xã nghe qua các bà đi chợ bà đều nắm được hết. Vui phết.
Bà Tịch có ba người con, một trai hai gái. Họ đều đi công tác xa. Con gái lớn là giáo viên vùng cao. Con trai thứ là cán bộ một đồn biên phòng, cưới cô vợ người Mông, sinh con đẻ cái và ở luôn trên vùng biên giới. Con gái út sau khi học đại học xong cũng đi làm giáo viên, dạy cùng trường với chị gái cả. Đến giờ, bà Tịch đã có bốn cháu: Ba ngoại, một nội. Nếp tẻ đủ cả. Mỗi tội là con cháu bà đều ở xa, chỉ có bà vò võ một mình ở quê. Chồng bà, ông Tân đã bỏ bà đi mấy năm nay sau một cơn bạo bệnh.
Thời gian đầu sau ngày ông Tân mất, các con bà Tịch thay nhau đón bà lên ở với chúng. Vui con vui cháu, bà khuây khỏa, nguôi ngoai phần nào. Tuy vậy, chỉ được mươi mười lăm ngày bà lại đòi về. Nhớ nhà, nhớ quê, nhớ hàng xóm, bà không chịu được. Không đành lòng để mẹ cô đơn, ba người con xúm vào bảo bà bán đất bán nhà lên ở với chúng. Bà không nghe. Đi thế nào được. Chôn nhau cắt rốn ở đây, mồ mả ông bà tổ tiên ở đây, bố chúng mày cũng nằm ở đây, tao là dâu trưởng, bỏ đi thế nào được? Chúng mày khỏe chân, khỏe tay, đi được thì cứ đi. Nhưng phải nhớ cho điều này, anh Tiến còn công tác thì thôi chứ sau này hưu rồi thì phải về đây mà ở, trông coi thờ cúng tổ tiên.
Một cơn gió bấc bất chợt ào đến. Bà Tịch rùng mình kéo cái khăn choàng kín cổ. Cầm mấy cái gốc tre khô, bà rum lại trong chiếc chậu nhôm hỏng sau đó nhặt thêm mấy mảnh củi nhỏ cài xuống dưới gốc tre. Bà loay hoay bật lửa nhóm bếp. Lửa bén vào củi, liếm dần tới rễ tre, gốc tre. Bà chụm môi thổi nhẹ. Gió tiếp sức. Ngọn lửa bốc dần lên. Củi tre nổ lách tách. Ngọn lửa như nhảy múa. Bếp lửa rực hồng. Bà đặt chiếc kiềng vào trong chậu lửa, rồi đặt tiếp chiếc ấm siêu lên trên. Xong đâu đó, bà ngồi xuống, hơ tay bên bếp, miệng xuýt xoa. Mỗi khi có cơn gió thổi tới, ngọn lửa lại bùng lên.
“Có đứa nào về chưa hả bà?”. “Ông Có hả? Chưa ông ạ!”. Nghe tiếng hỏi, bà biết ngay là ông Có đã sang. Ông ở cạnh nhà bà. Tên là Có nhưng đời ông khá vất vả. Bộ đội chống Mỹ về, chiến đấu trong vùng chất độc da cam nên đẻ mấy đứa con toàn dị tật chết yểu. May mà vợ chồng ông có cái Huệ trước lúc ông nhập ngũ. Tuy nhiên, chị này lại lấy chồng xa. Thế rồi, bà ấy lại bỏ ông đi sau một cơn đột quỵ. Rõ khổ. Ông sống cô đơn gần chục năm nay.
Kéo chiếc ghế con đặt cạnh chậu lửa, bà Tịch mời ông Có ngồi. “Bà cho xin miếng trầu ăn cho ấm bụng”. “Trầu tôi để trong cái cơi ở tủ quán đó. Ông lấy hộ cái”. Quen chỗ, ông Có mở tủ lấy cơi trầu. Cầm một miếng bỏ vào mồm ông nhai một cách ngon lành. Làng Cổ Cò này, đàn ông ăn trầu duy nhất chỉ có ông. Thực ra, ông cũng chỉ mới biết ăn trầu gần đây. Lúc đầu cũng khó ăn lắm. Có bận ông say lử lả. Còn say hơn cả say thuốc lào. Vậy mà sau đó thì ông nghiện. Nghiện lúc nào ông cũng không hay. Trầu phải mặn vôi, thêm thuốc lào vào ăn mới đã.
Mấy lần ông Có định sắm “bộ đồ nghề” ăn trầu như bà Tịch nhưng nghĩ nó buồn cười nên lại thôi. Lúc nào thèm trầu thì cứ sang bà ấy. Lo gì. Đàn ông đàn ang, cơi cối làm gì, kỳ quặc lắm. Ăn bên ấy đủ rồi, lúc về bỏ túi mấy miếng là ổn. Thế rồi, chẳng biết ông nghiện ăn trầu hay phải lòng bà Tịch nữa mà một ngày không ngồi ở quán bà đôi lượt là ông nhớ. Ngược lại, bà Tịch cũng nhiễm thú uống trà từ ngày ông Có hay sang quán. Cứ ông ấy sang là bà pha trà. Người ta “rượu khà, trà chép”, đằng này hai ông bà lại “trầu già, trà đặc” đối ẩm với nhau chuyện tràn cung mây. Nhưng cũng nhiều lúc họ lại ngồi lặng im, miệng chép chép vị trà hoặc nuốt nước cốt trầu, cùng nhìn xa xăm tư lự.
Nhớ cái đận làng nâng cấp con đường này, không có bà Tịch và ông Có thì còn lâu mới thi công thông được. Thì đường cũ bê tông rộng ba mét, đi lại dễ dàng rồi cần gì phải nâng cấp nữa? Nông thôn chứ phải thành phố đâu mà cần đường rộng? Hơn nữa, xã đã đạt danh hiệu “nông thôn mới” rồi bày vẽ “nâng cao” làm gì cho mệt? Mấy hộ ngại đóng góp tìm cách phá ngang. Họ rỉ tai bà Tịch: “Nhà bà ở đầu làng, cần quái gì đường to mà đóng với góp. Bước ra cửa là quốc lộ, đường Nhà nước hẳn hoi cần gì đường làng?”. Bà Tịch ngồi nghe chỉ ậm ừ.
Theo thiết kế nâng cấp con đường thì nhà bà mất gần trăm mét tường rào, vào sâu hơn mét nữa. Vị chi là mất hơn trăm mét vuông đất. Kể cũng xót thật. Ông Có là đảng viên. Chi bộ phân công ông phụ trách xóm này. Ông không biết bắt đầu từ đâu. Chợt nhớ tới bà Tịch. Bà ấy là vợ thương binh. Các con bà đều là cán bộ Nhà nước. Có đứa còn là sĩ quan quân đội nữa. Từ những nhân tố đó ông đã tỉ tê tâm sự, vận động, thuyết phục bà.
Bà Tịch nghe ra ủng hộ liền. Các con bà biết tin còn cho bà cả chục triệu đồng xây lại tường rào. Theo gương bà, các hộ khác cùng hưởng ứng. Xóm đầu làng thông, các xóm sau cứ thế theo. Sau mấy tháng thi công, con đường hoàn thành, rộng rãi, phẳng phiu, đẹp như mơ. Khu đất nhà bà Tịch có mặt tiền thoáng đãng càng có giá. Các hộ khác trong làng triển khai phương án bám đường mở rộng kinh doanh dịch vụ. Bóng dáng thị tứ hình thành. Đúng là đường mở đến đâu dân giàu đến đó. Tết này là Tết đầu tiên mọi người được đi trên con đường lớn thênh thang này.
“Hai ông bà tình tứ quá”. “Chụm đầu bên bếp lửa giờ này thì còn gì bằng”. Các bà đi chợ qua thi nhau trêu đùa. Ông Có chỉ cười trừ. Chuyện gán ghép này, các con hai phía ông bà tuy ở xa nhưng chúng đều nghe thấy cả. Bọn chúng tỏ ý băn khoăn. Nghe nó cứ sao sao ấy. Sáu bảy mươi cả rồi giờ lại yêu với chả cưới. Riêng chị Huệ thì có vẻ xuôi xuôi.
Gì bằng có người sớm hôm bầu bạn với bố mình. Sau ngày mẹ mất, chị đã cho thằng Tuấn lên ở với ông ngoại rồi nhưng vẫn không ổn. Ông chiều cháu quá để cháu trốn học vào quán net chơi game. Sức học sa sút. Nhà trường gửi giấy thông báo về cho chị. Chị đành phải lôi con về trực tiếp kèm cặp, dạy dỗ. Thế là bố chị lại cô đơn. Đón bố về ở với mình thì cụ không nghe.
Giờ mà được bà Tịch, mẹ của Tiến “góp gạo thổi cơm chung” thì còn gì bằng. “Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”. Các cụ dạy cấm có sai bao giờ. Nhà người ta có con trai dẫu có đi xa chăng nữa thì ngày lễ, ngày Tết họ vẫn được sum họp quây quần đầm ấm cùng con trai, con dâu, cháu nội. Đằng này, bố mình được mỗi mình là gái. Gái phải theo chồng, phải lo cho nhà chồng. Thế nên, ngày Tết bố vẫn phải một mình. Thương lắm. Giờ mà bố tục huyền được thì còn gì hơn. Với bà Tịch hàng xóm tốt bụng, hiền lành nữa thì chỉ có nhất.
Chị em con bà Tịch thì có ý phản đối việc này. Dân làng gán ghép vậy, mẹ đừng có ngả nghiêng nhé. Già rồi, tái giá tái rổ làm gì? Về để hầu hạ ông ấy à? Mẹ thiếu gì cứ bảo chúng con. Hai chị em gái thay nhau nói. Riêng Tiến thì lặng im. Bà Tịch thừ người. Nào đã ý tứ gì đâu mà chúng nó đành đạch ra thế? Thiếu gì ư? Thiếu tình cảm sớm khuya. Thiếu bóng đàn ông trong nhà. Vật chất tao không thiếu, tao thiếu những thứ đó đấy.
Đêm hôm mưa bão gió rét, mất điện, nhà tối om om, sợ lắm chứ. Như cái đêm đầu năm nay đấy, mưa to gió lớn ập về, cành xoài gãy rơi xuống đầu nhà, nếu không có ông Có dễ tao chả chết khiếp lên ấy chứ. Giữa đêm, ông ấy khoác áo mưa, cầm đèn pin chạy sang, che chắn nhà cửa. Rồi hôm sau nữa, ông ấy đã dọn dẹp giúp cả ngày. Chúng mày có ở nhà đâu mà biết?
“Đường hoa làng mình đẹp quá bà ạ”. Ông Có nói cắt ngang dòng suy nghĩ của bà Tịch. Bà liền nhìn theo tốp những người đi chợ, ngắm hoa hai bên đường đáp: “Ra giêng, gặp mưa xuân, chúng còn đẹp nữa ông ạ”. “Dạo ấy, nghe bà, tôi cho xóm mình trồng hoa hai ven đường, các xóm họ làm theo. Bây giờ trông thích thật. Đường mới, hoa tươi, đủ các màu nhìn khác nào công viên”. “Nông thôn mới nâng cao mà lị”… Hai người vừa sưởi ấm vừa rủ rỉ chuyện trò quên đi cả cái rét.
Đúng là theo sáng kiến của bà Tịch, mặt đường bê tông rộng sáu mét, rãnh thoát nước đậy nắp bê tông nửa mét nữa, rồi đến lề đường hơn nửa mét đất tha hồ rộng rãi phong quang. Ta nên tận dụng hai bên lề đường trồng hoa, bảo đảm mai kia đẹp phải biết. Nói là làm. Hai ông bà cuốc xới, xin các loại giống hoa về trồng. Dân làng thấy thế càng trêu đùa họ. Đến khi hoa nở, nhất là hoa mười giờ đỏ rực cả vạt dài hai bên đường làm nền cho các loại hoa khác thì ai cũng tấm tắc khen. Các xóm lại đua nhau làm theo mô hình xóm ông Có bà Tịch. Giờ đây, con đường đang rực rỡ hoa, nhộn nhịp người xe đi lại đầy ắp không khí Tết. Dân làng ai cũng phấn chấn tự hào. Khách ở xa đến đều ngỡ ngàng. Đúng là khu dân cư kiểu mẫu có khác.
Mấy hôm nay, hễ cứ có xe khách đỗ là bà Tịch lại ngó ra. Bà đang mong con cháu về ăn Tết. Ông Có cũng thấp thỏm tâm trạng đó. Bếp than hồng rực đỏ. Bà Tịch với cơi trầu lấy một miếng đưa ông Có: “Ông ăn thêm miếng nữa cho ấm bụng. Chúng nó chả về thì thôi. Cần gì”. Bà nói vẻ bất cần nhưng pha chút hờn dỗi. Ông Có tiếp tục nhai trầu rồi thủng thẳng: “Hay là… tôi với bà về với nhau, cùng đón Tết đi bà?”. Bà Tịch sững sờ trố mắt nhìn. Rồi bà phá lên cười: “Ông dở người à? Tuổi này mà còn…”. Ông Có cắt ngang: “Tôi nói nghiêm túc đấy. Bà cứ nghĩ kỹ đi”. Thấy vẻ mặt của ông Có, bà Tịch dừng cười nhìn ông trầm ngâm.
Vừa lúc đó thì hai chiếc xe khách đỗ xịch trước cổng. Cái từ dưới xuôi lên, cái từ vùng cao xuống. Cả ông Có và bà Tịch cùng ngó ra. Mẹ con nhà chị Huệ, rồi vợ chồng cái con nhà anh Tiến. Không hẹn mà gặp, họ cùng lục tục xuống xe. Tất cả ríu rít. Huệ và Tiến ngỡ ngàng ngắm con đường hoa rồi trầm trồ với nhau. Đẹp quá! Không ngờ làng mình có con đường đẹp thế! “Công của ông Có bà Tịch đấy”. “Chả có hai ông bà ấy thì còn lâu”. Tiếng một người nào đó trong đám đi chợ về nói với họ. Cả Huệ và Tiến cùng quay ra nhìn bố mẹ mình.
Lất phất mưa xuân bay. Cây đào trước ngõ, ngay cạnh quán, cành nào cành nấy chúm chím nụ hồng. Ai cũng cảm thấy rạo rực lâng lâng. Đúng là Tết đã đến, xuân đã về trước ngõ thật rồi!
Truyện ngắn của Đỗ Xuân Thu
Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.com.vn/bg/van-hoa/tac-gia-tac-pham/417204/duong-hoa-ruc-ro.html