Gắn bó mật thiết với Nhân dân theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thấm nhuần và thực hiện nghiêm Di chúc của Người nói chung, về tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân nói riêng không chỉ giúp mỗi cán bộ, đảng viên rèn đức, luyện tài, tự soi, tự sửa mình, mà còn góp phần xây dựng Đảng 'là đạo đức, là văn minh', xứng đáng với niềm tin yêu và sự kỳ vọng của Nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, căn dặn.
55 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, những lời dặn lại của Người trong bản Di chúc lịch sử: “Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”[1], nên “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân” vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự.
Gắn bó mật thiết với Nhân dân làm nên sức mạnh của Đảng
Thấm nhuần lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân” và chỉ dẫn của V.I.Lênin: “Chừng nào mà người vô sản còn là một cá nhân tách biệt, thì họ chẳng có nghĩa gì cả”[2], Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định yêu cầu tất yếu Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, mà còn xác định mục tiêu lớn lao của Đảng chính là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hơn 94 năm kể từ khi ra đời và đảm nhận sứ mệnh lịch sử là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ chứng minh lý tưởng của Đảng phù hợp với khát vọng của Nhân dân, dân tộc Việt Nam, mà còn luôn gắn bó với quần chúng Nhân dân, cổ vũ họ, quy tụ họ và lãnh đạo họ tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh cách mạng để tự giải phóng mình, đưa những “thần dân”/những người “nô lệ An Nam” trở thành chủ nhân một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất và ngày càng phát triển; khẳng định được vị thế, vai trò của mình trong khu vực và cộng đồng quốc tế…
Thực tế cho thấy là, để xứng đáng với trọng trách vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân như lời dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng vừa phải không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối đúng trên tinh thần lấy dân giàu, nước mạnh làm nền tảng, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm nguyên tắc; lấy Nhân dân làm trung tâm của mọi đường lối, chủ trương của Đảng và gắn bó mật thiết với Nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Nhân dân, phải chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình, mà còn vừa phải chú trọng rèn luyện về bản lĩnh chính trị, trí tuệ; thống nhất về tổ chức và gương mẫu về đạo đức cách mạng. Đồng thời, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên còn phải thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, tuân thủ Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng và chủ động phòng, tránh, đấu tranh nhằm ngăn ngừa các nguy cơ sai lầm về đường lối, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"… để xứng đáng là đội tiên phong/là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam/là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định.
Một cách cụ thể thì “nếu không có Nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”[3], nên Đảng cần “phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”[4]. Vì thế, để phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trong nhận thức và hành động, thể hiện rõ trong tư duy, phong cách làm việc khoa học, lối sống gần gũi, sẻ chia với đồng chí, đồng nghiệp và Nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Ý DÂN LÀ Ý TRỜI. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”[5], thì bất cứ ở đâu và lúc nào, đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng cần phải “theo đúng đường lối Nhân dân và 6 điều là: Đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; Việc gì cũng bàn với Nhân dân, giải thích cho Nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước Nhân dân, và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi Nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để Nhân dân noi theo”[6] để sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự Nhân dân.
Đồng thời, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng đều phải nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, luôn ghi nhớ lời dặn “phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng” và “làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ”[7] và “tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[8]. Thực tế đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn là, để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân và nhân nguồn sức mạnh của Đảng, Đảng ta đã không chỉ dũng cảm “thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều”, mà còn chú trọng thực hiện việc “khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách Nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hóa nó thành cách chỉ đạo Nhân dân. “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên””[9] để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của từng cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong suốt tiến trình cách mạng.
Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân theo Di chúc để xây dựng Đảng
Từ nhận thức sâu sắc rằng cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân đã không chỉ được khẳng định trong Văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[10], mà còn được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trong mọi công tác lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng.
Đặc biệt, thực hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thực hiện nguyên tắc gắn bó mật thiết với Nhân dân… qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng dù đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, song vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đó chính là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã gây bức xúc dư luận, làm xói mòn lòng tin của Nhân dân vào các cơ quan công quyền. Một bộ phận cán bộ, đảng viên đã quên lời thề danh dự của người cộng sản, không chỉ sa vào cá nhân chủ nghĩa, tham ô, tham nhũng, tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền (để vơ vét cho mình, người thân và nhóm lợi ích), gây bất bình trong Nhân dân…, mà còn lên mặt làm quan cách mạng (miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối quan chủ; miệng nói phụng sự quần chúng, nhưng khi làm thì trái ngược với lợi ích của quần chúng) để hách dịch, sách nhiễu Nhân dân, thờ ơ, vô cảm trước yêu cầu và mong mỏi của Nhân dân…
Thực trạng này không chỉ làm xói mòn lòng tin của Nhân dân với Đảng, mà còn trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Cá biệt hơn nữa, trong Đảng đã có những con “sâu mọt” không chỉ tự đánh mất mình, mất quần chúng vì không thực hiện nghiêm mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, mà còn coi thường dân chủ và coi phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” của Đảng chỉ là “khẩu hiệu” trên giấy. Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa của những kẻ suy thoái đó đã dẫn đến sự bất bình trong Nhân dân; dẫn đến nguy cơ suy thoái của một Đảng cầm quyền; dẫn đến nguy cơ làm mất đi nguồn sức mạnh nội lực của Đảng, đe dọa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, có thể khẳng định rằng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân không chỉ có ý nghĩa sống còn đối với sự sinh tồn của Đảng và chế độ, mà còn đồng thời cho thấy trong mối quan hệ đó, Nhân dân là môi trường sống, là nguồn dưỡng chất để Đảng tồn tại và phát triển. Sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ sức mạnh, sự ủng hộ của Nhân dân, cho nên gắn bó với Nhân dân là thuộc tính tự nhiên, là bản chất đặc trưng của một chính Đảng Mácxít - Lêninnít chân chính và trở thành nguyên tắc hoạt động hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Xa rời Nhân dân cũng có nghĩa là xa rời bản chất cách mạng của Đảng, vì thế mức độ gắn bó với Nhân dân đã trở thành tiêu chí đánh giá bản chất cách mạng của Đảng; đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên. Và cũng vì thế, việc từng tổ chức cơ sở Đảng từ Trung ương đến địa phương đã gắn thực hiện các Nghị quyết chuyên đề về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII) gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (Chỉ thị số 03-CT/TW, Chỉ thị số 05-CT/TW); gắn với các Quy định về những điều đảng viên không được làm (Quy định số 47-QĐ/TW, Quy định số 37-QĐ/TW); gắn với các Quy định về nêu gương (Quy định số 55-QĐ/TW, Quy định số 08-QĐ/TW)… để phòng, chống và đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, xa dân, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,v.v... nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức cơ sở đảng đã không chỉ làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền phong, mà còn góp phần củng cố và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân - nguồn dinh dưỡng vun bồi sức mạnh của Đảng.
Để ngăn chặn tình trạng trong Đảng vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng nên đã sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi và bị cám dỗ bởi quyền lực, bởi các lợi ích vật chất; đã không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác và quan liêu, xa rời quần chúng, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc, đòi hỏi chính đáng của Nhân dân… thì cả hệ thống chính trị cần phải tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó chính là tiếp tục thực hiện nghiêm Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Đồng thời, để làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước Nhân dân; để xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của Nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn thì từng cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, từng cán bộ, đảng viên từ Trung ương xuống đến cơ sở phải quán triệt nguyên tắc dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Cùng với đó, phải quán triệt nguyên tắc gắn bó mật thiết với Nhân dân trên tinh thần “lấy dân làm gốc” từ nhận thức đến hành động và luôn đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, dân chủ, giản dị, gần gũi quần chúng, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong từng công việc hàng ngày, trên mọi lĩnh vực cuộc sống để “mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương, theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương”[11] nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 14/6/2024 về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng”…. Đó chính là thiết thực làm cho những lời dặn đầy tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc không chỉ dừng lại là “cẩm nang”, mà còn trở thành hiện thực sinh động trong thực tiễn./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612
[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.5, tr.11-12
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.5, tr.278
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.5, tr.278
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.63
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.177
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.334
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.337-338
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.338.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.65.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.14, tr.28.