Gắn mã định danh cho từng công trình thủy lợi để ứng phó mưa lũ cực đoan

Chiều 21/11, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn 'Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước'.

Lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi và Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường chủ trì Diễn đàn.

Lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi và Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường chủ trì Diễn đàn.

Diễn đàn nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 57 về đột phá khoa học - công nghệ và chuyển đổi số; thực hiện Kết luận 36 của Bộ Chính trị về an toàn đập, hồ chứa; cùng Quyết định 1595 của Thủ tướng Chính phủ về hiện đại hóa quản lý vận hành hồ chứa thủy lợi.

Cảnh báo nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.

“Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ”, ông An nêu bất cập.

Ông An cho rằng thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật, không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn.

Ngoài ra, hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn; nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.

Để giải quyết những bất cập này, ông An cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn…

Ông An khẳng định, khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.

Gắn mã định danh cho từng công trình thủy lợi

Theo ông ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nghĩa với chuyển đổi số, nhưng chuyển đổi số bắt buộc phải dựa trên công nghệ thông tin. Đối với các công trình thủy lợi, hồ đập, mỗi công trình cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch.

Ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Việc chuyển đổi số phải bắt đầu từ số hóa dữ liệu hiện hữu, đảm bảo các thông tin phải đúng, đủ, sạch, sống và thống nhất, lấy trực tiếp từ nguồn, tránh dữ liệu sai lệch hoặc không chính xác. Khi có dữ liệu chuẩn và đầy đủ, hệ thống quản lý sẽ giúp giám sát, vận hành và điều phối hồ đập theo thời gian thực, hỗ trợ dự báo lũ, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, tối ưu khai thác nước tưới, nước sinh hoạt và thủy điện.

Chuyển đổi số còn giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. Theo ông Hiển, điều quan trọng là các cơ quan quản lý cùng bắt tay triển khai đồng bộ, đưa công trình thủy lợi bước vào kỷ nguyên số để quản lý thông minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu an toàn và phát triển bền vững.

Tại Diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.

Trong bối cảnh đó, câu chuyện quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới. Theo ông Phong, Diễn đàn lần này nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 57 về chuyển đổi số và nhiệm vụ bảo đảm an toàn đập, hồ chứa.

Quang cảnh Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”.

Quang cảnh Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”.

Đề cập đến dung tích và khả năng phối hợp liên hồ, ông cho biết tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m³, trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn “lịch sử”.

Ông Phong nhấn mạnh hồ chứa ngày nay là công trình đa mục tiêu: vừa đảm bảo an toàn công trình, an toàn hạ du, vừa duy trì cấp nước cho sản xuất - sinh hoạt và phục vụ phát điện. Vì vậy, phương thức quản lý - vận hành cũng phải mang tính liên ngành, chứ không thể tiếp cận riêng rẽ theo từng lĩnh vực.

Liên quan đến nội dung chuyển đổi số, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã gắn mã định danh cho khoảng một nửa trong số hơn 86.000 công trình, đang phối hợp để hoàn thiện chuẩn cơ sở dữ liệu ngành, trước hết là với các hồ chứa.

“Định hướng tới đây là xây dựng một cơ sở dữ liệu dùng chung, với định dạng thống nhất, các địa phương cùng cập nhật, và một phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung cho quản lý, vận hành hồ chứa”, ông Nguyễn Tùng Phong cho hay.

Hà An

Nguồn Công Lý: https://congly.vn/gan-ma-dinh-danh-cho-tung-cong-trinh-thuy-loi-de-ung-pho-mua-lu-cuc-doan-502286.html