Giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Đồng thời, nước ta cũng thuộc nhóm phát thải khí nhà kính đáng kể trong khu vực, trong đó khí mê-tan (CH₄) chiếm tỷ lệ lớn.
Lộ trình giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, phát thải khí mê-tan chiếm khoảng gần 80% tổng phát thải khí nhà kính từ nông nghiệp, chủ yếu xuất phát từ sản xuất lúa nước và tiêu thụ thức ăn gia súc. Khí mê-tan được sinh ra chủ yếu từ quá trình phân hủy kỵ khí trong đất ngập nước.

Triển khai lộ trình giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt đối mặt với nhiều thách thức (Nguồn ảnh: Toomva)
Theo ước tính của FAO, Việt Nam là một trong các quốc gia phát thải mê-tan nhiều nhất từ trồng lúa. Ngoài ra, việc đốt rơm rạ sau thu hoạch, quản lý không hiệu quả các phụ phẩm nông nghiệp (như thân ngô, vỏ cà phê, lá mía) cũng làm gia tăng phát thải khí nhà kính.
Việt Nam đã tham gia Cam kết toàn cầu về giảm phát thải mê-tan (Global Methane Pledge) cùng hơn 150 quốc gia, hướng tới cắt giảm 30% lượng phát thải mê-tan vào năm 2030 so với mức phát thải khí mê-tan năm 2020. Để thực hiện mục tiêu này, cần một lộ trình chi tiết, kết hợp giải pháp kỹ thuật, cơ chế chính sách và sự tham gia của nông dân.
Giai đoạn 2023 - 2025 được xem là thời gian áp dụng thí điểm và tạo nền tảng bằng việc triển khai diện rộng các mô hình canh tác lúa thông minh như “tưới ngập khô xen kẽ” (AWD), giảm mật độ gieo cấy, sử dụng giống lúa ngắn ngày tại các tỉnh trọng điểm. Xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) để tính toán chính xác lượng phát thải giảm được, hoàn thiện khung chính sách khuyến khích nông dân áp dụng công nghệ tiết kiệm nước và phân bón cũng như truyền thông nâng cao nhận thức.
Giai đoạn 2026 - 2030 phấn đấu mở rộng và gắn với thị trường carbon khi đưa diện tích lúa áp dụng canh tác phát thải thấp lên ít nhất 2 triệu ha, tập trung tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp: rơm rạ được thu gom để sản xuất phân hữu cơ, viên nén sinh khối, nấm rơm… thay cho đốt bỏ. Kết nối cơ chế tín chỉ carbon.

Trồng lúa với đặc thù canh tác ngập nước trong thời gian dài đã tạo ra môi trường yếm khí, dẫn đến phát thải lượng lớn khí mê-tan. (Nguồn ảnh: Báo Lạng Sơn)
Giai đoạn 2031 – 2050 là thời kỳ ổn định và phát triển bền vững khi chuẩn hóa toàn bộ quy trình sản xuất lúa gạo phát thải thấp, trở thành tiêu chuẩn quốc gia. Khi ấy, chúng ta mới có thể đưa phát thải ròng của ngành trồng trọt về xấp xỉ 0, góp phần thực hiện cam kết quốc gia tại COP26.
Thách thức đi cùng cơ hội
Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức Hội nghị công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050", đồng thời tham vấn cho dự thảo kế hoạch hành động triển khai đề án. Đề án được ban hành đúng thời điểm, trong bối cảnh ngành trồng trọt đối mặt với thách thức từ biến đổi khí hậu và yêu cầu hội nhập sâu vào thị trường quốc tế. Mục tiêu trung tâm là vừa đảm bảo tăng trưởng năng suất, giá trị sản xuất, vừa giảm phát thải khí nhà kính, hướng đến nền nông nghiệp xanh và tuần hoàn.
Đại diện Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, Đề án là cơ sở pháp lý quan trọng để ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật triển khai đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2025 - 2030, với tầm nhìn đến năm 2050. Ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020.
Giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội vàng để Việt Nam tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững và hội nhập quốc tế. Nếu làm tốt, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu về nông nghiệp phát thải thấp trong khu vực, vừa bảo vệ môi trường, vừa nâng cao giá trị nông sản trên thị trường toàn cầu.












