Giáo dục – Nền tảng cốt lõi để thoát nghèo ở ĐBSCL
Tại ĐBSCL, sự phát triển nhanh về số lượng trường lớp, người học mở ra cơ hội tiếp cận giáo dục.
Đầu tư giáo dục là đầu tư cho tương lai. Với các tỉnh, thành của vùng ĐBSCL, đó là con đường tích lũy tri thức, mở ra cơ hội để mỗi người nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu,
Từ "kỳ tích giảm nghèo" đến thách thức "mở mang bờ cõi trí tuệ" của ĐBSCL
Gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã viết nên câu chuyện đầy cảm hứng về nỗ lực vươn lên, được cộng đồng quốc tế ghi nhận như một điểm sáng. Chúng ta đã hoàn thành trước thời hạn mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc về xóa đói giảm nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo từ mức gần 60% đầu thập niên 90 xuống dưới 3% theo chuẩn đa chiều hiện nay.

Sinh viên ở ĐBSCL trong một buổi thực hành. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Từ một quốc gia thiếu đói, Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành cường quốc xuất khẩu gạo và nông sản, đóng góp vào an ninh lương thực thế giới.
Hệ thống giáo dục cũng đạt được những bước tiến dài về quy mô. Mạng lưới trường lớp phủ kín từ đồng bằng đến hải đảo, xóa mù chữ đạt tỷ lệ cao. Tuy nhiên, khi nỗi lo về "cái bụng" đã vơi, thì nỗi lo về "cái đầu" – chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn đó. Yêu cầu "mở mang bờ cõi trí tuệ, nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu cho nhân lực Việt Nam" vẫn còn là một thách thức lớn, đặc biệt khi nhìn vào bức tranh phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. "Khoảng nghèo thiếu học" đang tạo ra những "vùng trũng" về cơ hội phát triển.
Tây Bắc và Tây Nguyên dù được ưu tiên đầu tư, vẫn là những "lõi nghèo" với tỷ lệ nghèo cao. Miền Trung, nơi con người hiếu học, chịu thương chịu khó, lại liên tục đối mặt nguy cơ tái nghèo do thiên tai, bão lũ thường xuyên. Nhưng đáng trăn trở nhất là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
ĐBSCL là vùng đất trù phú, đóng góp gần 20% GDP và là vựa lúa, tôm cá của cả nước. Tuy nhiên, ĐBSCL vẫn đang tồn tại nghịch lý giàu tiềm năng, người dân khó khăn, bỏ xứ đi làm ăn xa và "thiếu chữ học". ĐBSCL không có nhiều huyện nghèo theo tiêu chí 30a, nhưng lại tồn tại tình trạng "nghèo đều" về thu nhập và sự bấp bênh trong sinh kế.
Tình trạng "nghèo thiếu học" không chỉ là những con số thống kê, nó hiện hữu trong đời sống của người dân các vùng miền.
Không khó để nhận thấy, những trẻ em Tây Bắc phong phanh áo mỏng đi bộ hàng chục cây số đường rừng sương muối để đến trường, học trong những lớp học tranh tre nứa lá. Ở Tây Nguyên là những lớp ghép ba trình độ, thầy cô phải vừa dạy chữ vừa vận động học sinh đến lớp. Tại miền Trung là những cuốn sách giáo khoa lấm lem bùn đất sau lũ, là nỗi lo cơm áo đè nặng lên ước mơ đến trường. Còn ở ĐBSCL, đó là sự giằng co giữa việc "đi học" để nuôi hy vọng đổi đời hay "đi làm thuê" để giải quyết cái đói trước mắt.
Cái nghèo do thiếu học tạo ra vòng luẩn quẩn. Khi tỷ lệ học vấn thấp, không có tay nghề, người lao động chỉ có thể dựa vào sức khỏe cơ bắp, làm nông nghiệp manh mún, lạc hậu hoặc các công việc phi chính thức với thu nhập thấp, bấp bênh. Hậu quả là thế hệ con cháu lại tiếp tục nghèo, tạo ra những "vùng lõm tri thức" mà nếu chỉ đầu tư cơ sở vật chất đơn thuần như điện, đường, trường, trạm thì khó lòng san lấp được.
ĐBSCL và lực cản việc học ở vùng khó
Ở vùng cao biên giới Tây Bắc, trẻ em thường phải nghỉ học vào mùa vụ. Rào cản ngôn ngữ khiến các em khó tiếp thu, nhiều em bỏ học từ rất sớm. Ở Tây Nguyên, tình trạng thiếu giáo viên triền miên khiến một số trường phải học tạm, học ghép, giảm chất lượng. Tập quán canh tác, du canh du cư ở vùng đồng bào dân tộc khiến trẻ em phải nghỉ học giúp gia đình làm nương rẫy vào mùa vụ cũng khiến kiến thức bị đứt gãy, dẫn đến bỏ học giữa chừng.
Tại các đô thị lớn và khu công nghiệp như TPHCM và các tỉnh Đông Nam Bộ, lực cản từ biến động dân cư và áp lực đô thị hóa. Hàng triệu lao động nhập cư mang theo con cái, nhưng hệ thống trường công lập không đáp ứng đủ. Trẻ em phải học ở các nhóm trẻ tự phát, trường tư thục chất lượng thấp hoặc phải chuyển trường liên tục theo bước chân mưu sinh của cha mẹ. Sự thiếu ổn định trong môi trường sống và học tập là nguyên nhân chính khiến nhiều em "rơi rụng" khỏi hệ thống giáo dục.


Đầu tư cho giáo dục là nền tảng cốt lõi để thoát nghèo ở ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Riêng tại ĐBSCL, lực cản lớn nhất chính là tư duy kinh tế ngắn hạn và bài toán "cơm áo gạo tiền". Không ít em bỏ học để đi làm thuê theo mùa vụ hoặc theo gia đình di cư. Tâm lý "học xong chưa chắc có việc làm" khiến nhiều gia đình lựa chọn cho con đi làm sớm thay vì đầu tư dài hạn. Tình trạng này từng được chỉ ra rõ trong nhiều phân tích về lao động vùng đồng bằng: học nghề nhưng không tìm được việc làm, hoặc việc làm không ổn định, làm giảm niềm tin vào hiệu quả của giáo dục.
Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở nhiều địa phương vẫn xa rời thực tế. Chương trình chậm đổi mới, thiếu thiết bị, thiếu liên kết doanh nghiệp. Người lao động học xong nhưng kỹ năng yếu, không đáp ứng được yêu cầu của nông nghiệp công nghệ cao hay dịch vụ du lịch. Khi "học rồi vẫn thất nghiệp", lực cản đối với việc học càng lớn. Những rào cản ấy biến việc học từ một quyền lợi thành một cuộc chiến dai dẳng để vượt qua đói nghèo và định kiến.
Giáo dục mở lối cho phát triển
Dù còn nhiều thách thức, nhưng thực tế từ nhiều địa phương cho thấy, nơi nào xem giáo dục là trọng tâm, nơi đó chuyển biến rõ rệt. Giáo dục là con đường phát triển, thoát nghèo bền vững.
Quảng Ninh là ví dụ, tỉnh chú trọng đào tạo nghề, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp để xây dựng chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật, du lịch và công nghiệp sạch. Nhờ đó, năng suất lao động tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, đội ngũ lao động được đào tạo bài bản đã giúp tỉnh dẫn đầu cả nước về chất lượng điều hành, trở thành địa phương có sức cạnh tranh cao.
Miền Trung cũng chứng kiến sự thay đổi ở những nơi đầu tư tốt cho nguồn nhân lực. Đà Nẵng sớm coi giáo dục và công nghệ là động lực phát triển, mở ra hệ sinh thái công nghệ thông tin, thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước. Lực lượng lao động trẻ, giỏi kỹ năng số đã tạo đà tăng trưởng bền vững cho thành phố.
Ở miền núi phía Bắc, hệ thống trường nội trú và bán trú dân tộc ở Sơn La, Lào Cai đã tạo điều kiện học tập ổn định cho học sinh vùng cao. Bữa ăn bán trú, ký túc xá, hỗ trợ học tập giúp giảm tỷ lệ bỏ học rõ rệt. Nhiều em trở thành sinh viên, kỹ thuật viên, cán bộ trẻ, trở về đóng góp cho địa phương – một sự thay đổi từng không dễ tưởng tượng.

Buổi học tiếng Anh của học sinh tại Trường TH Võ Trường Toản (TP Cần Thơ). Ảnh: Ca Linh
Tại ĐBSCL, sự phát triển nhanh về số lượng trường lớp, người học mở ra cơ hội tiếp cận giáo dục. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và tái cơ cấu nông nghiệp, giáo dục càng cấp thiết. Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, các mô hình nông nghiệp chuyển đổi, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn đang được triển khai xây dựng đang rất cần những công dân số, nông dân tri thức biết ứng dụng công nghệ, biết liên kết chuỗi giá trị chứ không chỉ làm theo kinh nghiệm. Các trường đại học tại đây phải trở thành trung tâm R&D, đào tạo "những gì thị trường cần", trang bị tư duy khởi nghiệp và năng lực thích ứng.
Giáo dục mở lối cho phát triển khi nó chạm đến từng gia đình và trở thành giá trị chung của cộng đồng. Khi cha mẹ tin vào giá trị của việc học; khi chính quyền đầu tư đúng trọng tâm; khi trường lớp tạo cơ hội cho mọi học sinh; khi thầy cô được trao quyền đổi mới – lúc đó tri thức trở thành động lực mạnh mẽ nhất để thay đổi cuộc sống.
Trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động, giáo dục vẫn là "con đường phát triển tương lai". Khi tri thức trở thành mục tiêu đầu tư của gia đình và chiến lược của địa phương, con đường thoát nghèo đang mở ra để làm giàu. Giá trị của giáo dục không chỉ nằm ở tấm bằng, mà ở khả năng đứng vững trước thay đổi – điều mà mọi vùng đất, mọi người dân đều cần trên hành trình phát triển.











