Giữ di sản bằng đời sống cộng đồng
Trong bối cảnh nhiều di sản đối mặt với áp lực từ du lịch và đô thị hóa, việc đặt cộng đồng vào vị trí trung tâm trong các chiến lược bảo tồn trở nên cấp thiết. Chính người dân địa phương, với vai trò chủ thể văn hóa sẽ là những người duy trì, thực hành và làm phong phú thêm giá trị sống động của di sản…
Di sản sống nhờ cộng đồng
Trong những năm qua, các di sản thế giới tại Việt Nam được UNESCO công nhận ngày càng khẳng định vai trò là nguồn lực quan trọng góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Không chỉ mang giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, các khu di sản còn tạo động lực thúc đẩy du lịch phát triển theo hướng bền vững. Thông qua đó, nhiều chuỗi giá trị liên quan như dịch vụ lưu trú, ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, giao thông và hướng dẫn du lịch cũng được hình thành và mở rộng.

Khu Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Tràng An (tỉnh Ninh Bình) đã phát huy vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát triển di sản. Ảnh: Đường Minh.
Sự phát triển này đã góp phần đa dạng hóa sinh kế cho người dân địa phương, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, đồng thời đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vùng và quốc gia một cách bền vững.
Tại phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam), cộng đồng địa phương không chỉ sống cùng di sản mà còn là người gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống. Những nghề thủ công như làm đèn lồng, ẩm thực bản địa, các loại hình sinh hoạt dân gian như hát bài chòi, lễ hội… vừa là mưu sinh vừa để bảo vệ và giữ gìn di sản.
Còn tại Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), nhờ định hướng đúng đắn từ chính quyền địa phương và tổ chức bảo tồn, cộng đồng dân cư vùng đệm đã chuyển đổi sinh kế từ khai thác tài nguyên rừng sang làm du lịch bền vững. Những mô hình du lịch khám phá hang động, lưu trú cộng đồng… phát triển mạnh mẽ, mang lại nguồn thu ổn định và giúp người dân chủ động tham gia vào công cuộc bảo vệ thiên nhiên.
Mỗi năm trung bình có khoảng 200.000 lượt khách đến tham quan chùa Chén Kiểu - ngôi chùa Khmer nổi tiếng tại xã Đại Tâm (huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng). Đến đây, du khách không thì được tham quan Chùa mà còn được tìm nghi lễ, xem biểu diễn các điệu múa, nhạc ngũ âm của đồng bào Khmer, thưởng thức ẩm thực, nông sản do người dân địa phương sản xuất và trực tiếp giới thiệu, bày bán.
Khi du khách tới tham quan làng nghề gốm Bàu Trúc tại trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) cũng đồng thời được trải nghiệm, khám phá nghệ thuật làm gốm độc đáo không dùng bàn xoay, được tìm hiểu văn hóa, tín ngưỡng tâm linh qua từng sản phẩm gốm và mua các sản phẩm gốm về làm quà.
Đó là những minh chứng sống động rằng, di sản chỉ thực sự được bảo tồn tốt khi được cộng đồng cùng gìn giữ và phát huy giá trị của nó trong đời sống hiện tại. Người dân địa phương vừa trực tiếp tham gia vào bảo tồn di sản vừa có thêm nguồn thu nhập để trang trải cuộc sống.
Cần cơ chế thu hút cộng đồng tham gia
Dù đã có một số mô hình thành công, nhưng thực tế cho thấy cộng đồng địa phương vẫn chưa thực sự được đặt vào đúng vai trò. Sự tham gia của họ nhiều khi mang tính hình thức, thiếu thông tin, thiếu cơ chế đối thoại và không có quyền tham gia vào các quyết định liên quan đến di sản nơi mình sinh sống.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương nhận định, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản không chỉ để lưu giữ những giá trị của quá khứ mà còn nhằm xây dựng nền tảng bền vững cho tương lai.
“Tuy nhiên thực tế cho thấy không phải di sản nào cũng được bảo tồn hiệu quả, không phải địa phương nào cũng khai thác và phát huy giá trị di sản một cách hài hòa, bền vững. Đã có những nơi phát triển nóng du lịch dẫn tới quá tải, ô nhiễm, làm xói mòn giá trị nguyên gốc của di sản. Cũng có nơi, người dân địa phương - những người sống giữa di sản - lại chưa thực sự được lắng nghe, tham gia, hoặc hưởng lợi một cách công bằng từ các chính sách bảo tồn và phát triển” - ông Cương nói.
Để giải quyết thực trạng đó, nhiều chuyên gia cho rằng, cần thiết lập các cơ chế cụ thể, lâu dài và có tính ràng buộc. Trong đó, cộng đồng phải được tiếp cận đầy đủ thông tin, được tham gia vào quá trình ra quyết định, giám sát và hưởng lợi từ di sản. Những hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực, tập huấn kỹ năng, tư vấn pháp lý… cũng là yếu tố quan trọng để cộng đồng có thể thực sự làm chủ quá trình bảo tồn.
Theo bà Phạm Thị Thanh Hường - đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam, cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cũng không ngừng nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý quốc gia, quy định ngày càng rõ ràng hơn các phạm trù di sản thế giới và cộng đồng địa phương cùng với việc minh triết các khái niệm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể văn hóa khác nhau.
“Đây là những nền tảng cơ bản cho việc quản lý và bảo vệ di sản thế giới, đồng thời hỗ trợ cho chiến lược bảo tồn di sản bền vững dựa vào cộng đồng. Khi người dân cảm thấy di sản gắn liền với sinh kế và bản sắc của mình, họ sẽ có động lực và trách nhiệm trong việc tham gia tích cực vào quá trình quản lý, bảo vệ và bảo tồn di sản” - bà Hường nhấn mạnh.
Còn theo PGS.TS Đặng Văn Bài - Phó Chủ tịch Hội đồng di sản văn hóa Quốc gia, để thúc đẩy định hướng tiếp cận dựa vào cộng đồng trong bảo tồn di sản văn hóa cần xây dựng các chương trình giáo dục di sản góp phần làm thay đổi nhận thức của cộng đồng về quyền văn hóa và tạo khả năng huy động tốt nhất các nguồn lực xã hội cho các hoạt động bảo tồn di sản.
Ngoài ra, xây dựng các mô hình tương thích để mở rộng việc trao quyền cho cộng đồng trong quản lý di sản theo nhiều hình thức khác nhau. Luôn phải năng động tìm kiếm sự cân bằng giữa việc bảo tồn tính nguyên gốc và nhu cầu phát triển của cộng đồng.
Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/giu-di-san-bang-doi-song-cong-dong-10306609.html