Giữ hồn văn hóa cho các đô thị thông minh
Trong quá trình chuyển mình thành một xã hội thông minh, Việt Nam có nguy cơ đánh mất nét văn hóa làm nên tính nhân văn của các hệ thống hỗ trợ phát triển. Theo PGS Lim Kok Yoong (Đại học RMIT): 'Việt Nam cần tập trung xây dựng văn hóa số toàn diện, đề cao đạo đức, bản sắc văn hóa và sáng tạo'.

PGS Lim Kok Yoong, Phó trưởng khoa phụ trách Nghiên cứu và Đổi mới, Khoa Truyền thông và Thiết kế (Đại học RMIT Việt Nam). Ảnh: RMIT
Số hóa xã hội Việt Nam hiện đại
Thói quen số hóa của người Việt đang phát triển nhanh chóng. Từ gọi taxi điện và thanh toán hóa đơn qua ứng dụng di động, đến cập nhật tình hình khu phố qua các nhóm trò chuyện trên Zalo hay sử dụng dịch vụ công trực tuyến, lối sống số đã trở thành một phần không thể tách rời trong trải nghiệm đô thị Việt.
Sự phát triển nhanh chóng của xã hội số chủ yếu nhờ việc phổ cập internet rộng rãi. Theo Statista, số người dùng internet tại Việt Nam đã tăng từ 36 triệu người năm 2014 lên 88 triệu người vào năm 2024 và dự kiến sẽ vượt mốc 100 triệu người vào năm 2027. Tuy nhiên, dù khả năng tiếp cận số đã tăng mạnh, nền kinh tế sáng tạo vẫn còn tụt hậu và chỉ đóng góp khoảng 0,63% GDP quốc gia năm 2023 - cho thấy tiềm năng tăng trưởng lớn còn chưa được khai thác.
Hầu hết các đề án về đô thị thông minh hiện nay đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng sống thông qua công nghệ, từ giao thông nhanh hơn, các hệ thống thông minh hơn đến dịch vụ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu thiếu chiều sâu văn hóa, những tầm nhìn này có nguy cơ trở thành “vỏ rỗng công nghệ”, tức là hiệu quả trên bề mặt nhưng lại thiếu tính nhân văn, vốn là yếu tố khiến các thành phố trở nên đáng sống.

Đô thị thông minh cần được thiết kế không chỉ để tối ưu dữ liệu, mà còn nâng cao trải nghiệm con người. Ảnh: RMIT
Với mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030 và nước thu nhập cao vào năm 2050, Việt Nam đang đứng trước cơ hội thay đổi tư duy về đổi mới sáng tạo số, không chỉ về tiến bộ kỹ thuật mà còn về hành động văn hóa, làm sao để vừa phát triển hạ tầng thông minh, vừa gìn giữ được hồn dân tộc.
Văn hóa số: nền tảng cho thành phố thông minh

Nền kinh tế sáng tạo tại Việt Nam chưa bắt kịp tốc độ nhanh chóng của việc tiếp cận kỹ thuật số. Ảnh: Unsplash
Văn hóa số không chỉ là nội dung được số hóa hay các ngành công nghiệp sáng tạo. Đó là cách con người hành xử, tương tác, hình thành niềm tin và giá trị cùng công nghệ trong môi trường số. Đồng thời, đó cũng là cách văn hóa và di sản được bảo tồn và tích hợp vào hệ sinh thái số. Tuy nhiên, trong các chiến lược đô thị thông minh hiện nay, việc số hóa văn hóa vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Thành công của chiến lược phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào việc triển khai công nghệ từ trên xuống, mà còn nằm ở khả năng thích nghi văn hóa từ dưới lên và những sáng kiến đổi mới do người dân khởi xướng. Đô thị thông minh cần được thiết kế không chỉ để tối ưu dữ liệu, mà còn để nâng cao trải nghiệm con người - đảm bảo rằng công nghệ sẽ làm giàu thêm, chứ không phải phai mờ đi bản sắc địa phương, khả năng sáng tạo và giá trị văn hóa. Nếu không, người dân có thể cảm thấy xa lạ với chính những hệ thống được tạo ra để phục vụ họ, hay nói cách khác là môi trường sống tiên tiến nhưng vô cảm.
Trên thực tế, Việt Nam có sẵn nền tảng văn hóa để phát triển văn hóa số. Ba địa phương ở Việt Nam gồm Hà Nội, Hội An và Đà Lạt đã được UNESCO trao danh hiệu Thành phố sáng tạo cho cho các mảng thiết kế, thủ công - nghệ thuật dân gian và âm nhạc (ứng theo từng địa phương). Lĩnh vực nghệ thuật số sáng tạo trong nước cũng đang phát triển mạnh, với sự hình thành của nhiều hợp tác liên ngành.
Người Việt cũng nổi tiếng linh hoạt và sáng tạo trong đời sống thường nhật. Hãy nhìn vào một nét đặc trưng của đô thị Việt: văn hóa xe máy – điều dường như hỗn loạn trong mắt người ngoài thực chất là một hệ thống tự tổ chức đầy linh hoạt và sáng tạo. Nó phản ánh cách người dân điều hướng, thương lượng và thay đổi cách sử dụng hạ tầng để phù hợp với cuộc sống thực tế của mình - một minh chứng sống động cho khả năng sáng tạo bền bỉ của người Việt.
Đầu tư vào con người sáng tạo và công nghệ sáng tạo
Phần lớn các thảo luận về đô thị thông minh hiện nay chủ yếu còn tập trung hạn hẹp vào công nghệ hóa hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, dẫn đến sự xuất hiện của các thuật ngữ như công nghệ tài chính (FinTech), công nghệ khu vực công (GovTech), công nghệ giáo dục (EduTech) hay công nghệ y tế (HealthTech).
Tuy nhiên, nhiều chiến lược quốc gia và khu vực lại thiếu vắng hình bóng của công nghệ nghệ thuật (ArtTech) hay công nghệ văn hóa (CultureTech) – những lĩnh vực nuôi dưỡng bản sắc, văn hóa, sự sáng tạo và cảm giác gắn kết.
Một xã hội thông minh toàn diện cần vượt ra khỏi hạ tầng vật lý để hướng tới “hạ tầng ý nghĩa”. Trong một xã hội đầy rẫy thuật toán, chính những người kể chuyện, nghệ sĩ và nhà thiết kế sẽ giúp con người cảm thấy gắn kết. Điều giúp Việt Nam nổi bật không chỉ có chuyển đổi số mà là cam kết giữ yếu tố con người ở vị trí trung tâm. Bởi lẽ, một đô thị thực sự thông minh là một đô thị lấy con người làm gốc.
Trên hành trình này, các cơ sở giáo dục như RMIT đóng vai trò quan trọng, giúp thế hệ trẻ am hiểu công nghệ tại Việt Nam không chỉ trở thành công dân số, mà còn là những người đồng kiến tạo tương lai số với ý thức văn hóa rõ ràng.
Điều mang lại hứng khởi nhất ở tiềm năng của người Việt chính là khả năng dám nghĩ dám làm mà vẫn giữ được cội rễ. Việt Nam là nơi văn hóa giao thoa với vi mạch, nơi năng lượng tuổi trẻ thổi sức sống mới vào sự uyên bác của cha ông. Xã hội thông minh mà chúng ta xây dựng đến năm 2050 sẽ có những nghệ sĩ số biết biên dịch văn hóa, những nhà văn thành thạo ngôn ngữ lập trình, những nhà phát minh công nghệ biết làm thơ, những giám tuyển mơ bằng thuật toán và những nhà dân tộc học hăng say kiến tạo di sản số.
Thế hệ sáng tạo trẻ cần mạnh dạn nắm lấy vai trò quan trọng của mình trong tương lai ấy. Bằng cách phát triển năng lực liên ngành và cảm quan văn hóa ngay từ bây giờ, họ có thể đóng góp ý nghĩa cho tương lai thông qua những câu chuyện, thiết kế và trí tưởng tượng.