Giữ lửa lò gốm giữa lòng phố thị

Những lò gốm đỏ lửa suốt trăm năm qua vẫn âm thầm níu giữ hơi thở của làng nghề gốm tại phường Thuận An, TP HCM

Giữa vòng xoáy đô thị hóa và sự phát triển của sản xuất công nghiệp, vài cơ sở vẫn kiên trì với công việc mỗi ngày, giữ nguyên nhịp xoay của bàn xoay đất sét, của đôi tay người thợ đã chai sần.

Đôi tay trần dựng lò, lập xưởng

Trong ánh lửa hồng hắt lên gương mặt người thợ, sắc men cũ và mùi đất nung như kể lại câu chuyện về một làng nghề trăm tuổi - nơi vẫn bền bỉ tồn tại, bất chấp những đổi thay dồn dập của thời cuộc.

Các làng nghề gốm ở Bình Dương thời kỳ hưng thịnh, nơi đây từng là "thủ phủ" cung ứng chén bát, lu khạp, hũ sành cho cả miền Nam như: Làng gốm Lái Thiêu, Làng Gốm Tân Phước Khánh, Làng Gốm Chánh Nghĩa… từng có trên 100 hộ gia đình theo nghề làm gốm nhiều đời. Sau nhiều năm, lửa trong nhiều lò đã tắt, chỉ còn vài cơ sở đủ sức bám nghề, vừa giữ chất gốm xưa vừa xoay xở thích nghi.

Làng Gốm Sứ Thuận An

Nói về nguồn cội, anh Chiêm Thành Minh, Công ty TNHH MTV Gốm Sứ Hưng Thành Phát, cho biết gia đình anh đã gắn bó với nghề gần sáu thập kỷ. Gốc gác làng nghề Thuận An thì xa hơn nữa, kéo dài trên trăm năm, gắn liền với thời những người thợ gốm đầu tiên khai khẩn đất lập lò.

Anh Minh không giấu được niềm tự hào khi nhắc đến truyền thống của gia đình. Với anh, mỗi lò gốm trong phường Thuận An không chỉ là nơi sản xuất mà còn là dấu tích của một thời khai khẩn, khi những người thợ đầu tiên dùng đôi tay trần dựng lò, lập xưởng và truyền nghề lại cho thế hệ sau. Lịch sử ấy đã trải dài hơn trăm năm, qua bao biến động của vùng ven Sài Gòn. Gia đình anh Minh là một phần của hành trình đó, với gần sáu thập kỷ gắn bó cùng đất sét, men lửa và nghề tổ.

Các sản phẩm gốm vừa được nhúng men chuẩn bị được đưa vào lò nung

Các sản phẩm gốm vừa được nhúng men chuẩn bị được đưa vào lò nung

Anh Minh cũng cho biết việc đào đất, đập gạch, vận chuyển đất xây lò đều làm bằng sức người, xe bò. Móng lò thì phải huy động cả chục thợ mà cứ mưa xuống là phải dừng. Lò nung muốn vận hành tốt buộc phải có diện tích lớn, độ dốc phù hợp để bắt lửa, còn phần mái chỉ dựng bằng gỗ, lợp lá. Lửa bùng cao là chuyện thường, lò cháy cũng chẳng phải hiếm, vậy mà thời đó lại không hề có nước để chữa cháy. Điện nước chưa có, mỗi ngày họ phải gánh từng gánh nước phục vụ việc nhào đất, tạo hình, dập khuôn. Mọi thứ đều làm bằng thủ công, rất cực, nhưng cũng chính từ khó khăn ấy mà nghề dạy người thợ sự tỉ mỉ, kiên trì và ý chí giữ nghề.

Thay đổi để tồn tại

Những ngày tháng chật vật giữ nghề, là khoảng thời gian khốn khó nhất của làng gốm. Anh Minh chia sẻ đó là quãng đời mà chỉ những ai từng sống cùng nghề mới cảm nhận hết sự khắc nghiệt: Thiếu thốn vật tư, quy định quản lý ngặt nghèo và những rủi ro luôn rình rập bất cứ lúc nào. Người thợ gốm khi ấy không chỉ làm nghề bằng sức lực mà còn phải chống chọi với nỗi lo mất kế sinh nhai, sợ bị tịch thu hàng, sợ những mẻ gốm cả tháng trời công sức bỗng chốc đổ sông vì một cơn mưa trái mùa.

"Nguồn đất sét và vật tư sản xuất đều bị xiết chặt. Nhà nước cấp cho bao nhiêu làm bấy nhiêu mà sản phẩm ra lò thì không được bán ra ngoài. Lỡ bán là bị quản lý thị trường bắt ngay" - anh Minh nhớ lại.

Trang trí tỉ mỉ của bàn tay người thợ lên gốm

Trang trí tỉ mỉ của bàn tay người thợ lên gốm

Không chỉ thiếu thốn về nguyên liệu mà thời tiết cũng trở thành một thử thách khó nhằn đối với những người thợ nơi đây. Khi trời chuyển mưa, họ phải tất tả đem gốm đang phơi vào, khi trời nắng lại, họ lại phải đem gốm ra phơi cho kịp khô.

Ngày nay, giữa áp lực của thị trường và sự cạnh tranh từ hàng công nghiệp, không phải lò nào cũng trụ vững. Nói về lý do Hưng Thành Phát vẫn còn hoạt động tốt, anh Minh cho hay điều quyết định nằm ở tinh thần thay đổi.

"Làm lò gốm thì cần phải yêu nghề và đầu tư cải tiến để đảm bảo chất lượng sản phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường. Cơ sở nào không chịu thay đổi thì không tìm được đầu ra" - anh Minh nói.

Những sản phẩm đã hoàn thành sau khi nung

Những sản phẩm đã hoàn thành sau khi nung

Không chỉ cải tiến kỹ thuật, anh Minh còn chú trọng chế độ đãi ngộ thợ lò, xem đây là yếu tố để giữ chân người lao động. Qua đó, đã có nhiều nhân công gắn bó với cơ sở của gia đình anh hàng chục năm. Nhưng đổi mới cũng đồng nghĩa là phải luôn chủ động trước biến động thị trường, đặc biệt về nguyên liệu.

Trong bối cảnh đô thị hóa khiến nhiều lò gốm dần biến mất, Hưng Thành Phát vẫn đỏ lửa mỗi ngày như một lát cắt của quá khứ còn sót lại. Người thợ hôm nay không còn gánh nước hay phơi gốm chạy mưa như xưa, nhưng tinh thần của nghề thì vẫn nguyên vẹn: Bền bỉ, nhẫn nại và đầy tự hào.

Lửa nghề đến hôm nay vẫn đang cháy trong lò và trong cả những người thợ đã gắn bó đời mình với đất, với lửa, với gốm.

Thảo Vân

Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/giu-lua-lo-gom-giua-long-pho-thi-19625112007592383.htm