Giữ ổn định lãi suất, tăng trưởng tín dụng linh hoạt để hỗ trợ kinh tế

Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, TS. Châu Đình Linh, trường đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, chính sách tiền tệ từ nay đến cuối năm cần tiếp tục kiên định với mục tiêu kép đó là vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành lãi suất phải linh hoạt, hài hòa với điều tiết tỷ giá và kiểm soát lạm phát, để tạo môi trường ổn định cho doanh nghiệp và người dân. Quan trọng hơn là bảo đảm chất lượng tín dụng, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên, hạn chế rủi ro nợ xấu và ngăn ngừa bong bóng tài sản.

Thưa ông, để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và góp phần vào tăng trưởng kinh tế, mặt bằng lãi suất trong thời gian qua được Chính phủ và NHNN kiên định quan điểm chỉ đạo giữ ổn định ở mức thấp. Ông đánh giá thế nào về xu hướng lãi suất từ nay đến cuối năm?

TS. Châu Đình Linh, trường đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

TS. Châu Đình Linh, trường đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Lãi suất vừa là công cụ trực tiếp, vừa là kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ. Mục tiêu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) luôn rõ ràng đó là duy trì mặt bằng lãi suất ổn định ở mức thấp, qua đó hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá. Từ đầu năm, NHNN đã đưa ra định hướng chỉ đạo giữ vững ổn định mặt bằng lãi suất, có xu hướng giảm để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí tối ưu. Với định hướng trên, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong thời gian qua luôn được giữ ở mức thấp, về phía NHNN cũng sử dụng nhiều công cụ để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Các nhà băng cũng tích cực tiết giảm chi phí hoạt động, đẩy mạnh chuyển đổi số để có điều kiện để hạ lãi vay. Đồng thời, có nhiều gói tín dụng ưu đãi, tập trung giảm lãi suất cho các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao, năng lượng xanh, chuyển đổi số, nhà ở xã hội…

Ngoài ra, bối cảnh quốc tế cũng hỗ trợ khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã phát tín hiệu giảm lãi suất. Điều này làm giảm sức ép tỷ giá, giúp chính sách tiền tệ trong nước linh hoạt hơn. Vì vậy, tôi cho rằng từ nay đến cuối năm, mặt bằng lãi suất cơ bản vẫn ổn định, không có biến động mạnh, thậm chí có xu hướng giảm nhẹ ở một số lĩnh vực ưu tiên.

Tăng trưởng kinh tế năm nay được dự báo 8,3-8,5%. Vậy tín dụng cần tăng như thế nào để hỗ trợ mục tiêu này, thưa ông?

Vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh tăng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 lên mức 8,3-8,5% thông qua Nghị quyết 226/NQ-CP ngày 5/8/2025, thay thế cho mục tiêu 8% trở lên ban đầu. Việc điều chỉnh này nhằm tạo nền tảng cho tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030 và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương nỗ lực cao nhất. Muốn GDP tăng trưởng mạnh, chắc chắn tín dụng sẽ là một trụ cột vô cùng quan trọng. Hai đồng vốn tín dụng có thể đóng góp 1 đồng vào tăng trưởng GDP.

Đối với điều hành tín dụng, ngay từ cuối năm 2024, NHNN thông báo công khai, minh bạch về nguyên tắc giao tăng trưởng tín dụng năm 2025 để các TCTD chủ động triển khai thực hiện. Thông báo cho nhóm ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, Ngân hàng Hợp tác xã và các TCTD phi ngân hàng được chủ động kiểm soát tăng trưởng tín dụng năm 2025. NHNN tiếp tục triển khai lộ trình hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc điều hành phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD. Với giải pháp đồng bộ, hiệu quả, tăng trưởng tín dụng tích cực cải thiện so với cùng kỳ năm 2024. Đến ngày 28/7/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng 9,64% so với cuối năm 2024.

Ngày 31/7/2025 vừa qua, NHNN cũng đã thông báo điều chỉnh tăng thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 đối với các TCTD theo nguyên tắc cụ thể, đảm bảo công khai, minh bạch. Việc bổ sung hạn mức này là sự chủ động của NHNN mà các TCTD không cần phải đề nghị.

Ngoài ra, NHNN cũng mới ban hành Thông tư số 14/2025/TT-NHNN, đây là bước tiến lớn hướng tới Basel III, với CAR tối thiểu nâng lên 10,5% từ năm 2030 (gồm cả bộ đệm vốn bảo toàn - CCB), cùng với yêu cầu bổ sung về bộ đệm vốn phản chu kỳ (CcyB) và cho phép triển khai phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB). Thông tư này mở đường cho việc áp dụng cơ chế tín dụng thị trường, là điều kiện cần để hệ thống tài chính Việt Nam vận hành hiệu quả và an toàn hơn trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng. Với những yếu tố này, tôi tin tưởng tăng trưởng tín dụng năm nay sẽ vượt mức đề ra để hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Tuy vậy, nhu cầu tín dụng tăng mạnh thường đi kèm áp lực thanh khoản. Ông nhìn nhận rủi ro này ra sao và tác động thế nào tới lãi suất cho vay?

Đúng là nhu cầu tín dụng cao sẽ tạo sức ép thanh khoản. Chúng ta đã thấy lãi suất huy động có dấu hiệu tăng ở một số ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng cũng biến động, trong khi các kênh đầu tư khác như chứng khoán, vàng hút dòng tiền mạnh hơn.

Tuy nhiên, cần phân tích rõ, áp lực chủ yếu tập trung ở ngân hàng nhỏ, vốn hạn chế. Các ngân hàng lớn, chiếm thị phần chủ đạo vẫn đủ tiềm lực giữ ổn định lãi suất. Hệ thống ngân hàng đã chuẩn bị nhiều công cụ kiểm soát rủi ro như áp dụng Basel II, Basel III; cơ chế giám sát theo thời gian thực; mô hình cảnh báo sớm thanh khoản. NHNN tiếp tục điều tiết qua thị trường liên ngân hàng, thị trường mở để bảo đảm cân đối thanh khoản toàn hệ thống.

Do vậy, lãi suất cho vay có thể chịu sức ép cục bộ, nhưng không gây biến động toàn hệ thống. Điều quan trọng là dòng vốn phải chảy đúng địa chỉ vào sản xuất, công nghệ cao, năng lượng xanh, những lĩnh vực ưu tiên thay vì dồn vào tài sản rủi ro cao. Nếu kiểm soát tốt, tín dụng sẽ vừa đáp ứng nhu cầu tăng trưởng, vừa tránh nguy cơ bong bóng tài sản.

Việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ cần sự quyết đoán của NHNN mà còn đòi hỏi trách nhiệm, tính tự chủ và kỷ luật thị trường từ phía các ngân hàng thương mại. Khi các trụ cột này vận hành đồng bộ, hệ thống ngân hàng mới có thể phát huy hiệu quả vai trò bệ đỡ cho nền kinh tế, góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và tạo nền tảng phát triển bền vững cho các năm tiếp theo.

Xin cảm ơn ông!

Quỳnh Trang

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/giu-on-dinh-lai-suat-tang-truong-tin-dung-linh-hoat-de-ho-tro-kinh-te-169600.html