Gỡ điểm nghẽn đang 'kìm chân' ngành logistics: Đâu là lời giải?
Để ngành logistics bứt phá trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp cần giải 'bài toán' chi phí thông qua hợp tác và nâng cao năng lực nội tại.
Tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp 4-5% GDP
Logistics được xác định là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Logistics là một trong những ngành dịch vụ trọng điểm để phát triển nền kinh tế
Chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương ví von, nếu nền kinh tế là một bộ máy thì có thể ví logistics như dầu bôi trơn cho bộ máy đó vận hành thông suốt, đạt được công suất lớn nhất với chi phí nhiên liệu ít nhất và độ bền cao nhất. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển đồng bộ, nhịp nhàng một khi chuỗi logistics hoạt động liên tục.
Chính vì vậy mà vai trò của logistics ngày càng được đề cao trong nền kinh tế quốc dân, trở thành nhân tố hỗ trợ cho dòng chu chuyển của các giao dịch kinh tế, đồng thời cũng là một phần quan trọng đối với hoạt động kinh doanh hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ.
Ông Trần Thanh Hải nhận định, với sự tích cực phối hợp, triển khai của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp…, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian qua.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, cùng với tốc độ tăng trưởng của GDP, giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu, trị giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ, trong thời gian vừa qua dịch vụ logistics của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao đạt 14-16%, đóng góp khoảng 4-5% GDP.
Xếp hạng của Ngân hàng Thế giới cho thấy, Việt Nam hiện đứng thứ 43/155 nước về hiệu quả logistics và thuộc nhóm 5 nước dẫn đầu ASEAN (sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và cùng thứ hạng với Philippines).

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương
Việt Nam hiện có hơn 40.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Trong đó, có hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL, trong đó chiếm 89% là doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được ngành logistics Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như chưa khai thác hết được lợi thế địa kinh tế và tương xứng với tiềm năng của mỗi địa phương; cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động logistics cũng như sự kết nối giữa hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ thông tin... cả trong nước và với khu vực còn chưa cao nên hiệu quả hoạt động logistics còn nhiều bất cập.
“Chi phí dịch vụ còn cao, chất lượng cung cấp một số dịch vụ còn hạn chế, trong điều kiện thị trường cung cấp dịch vụ của Việt Nam hiện nay có sự cạnh tranh gay gắt” - ông Hải chỉ rõ.
Nguyên nhân chính là hạn chế về quy mô doanh nghiệp và vốn, kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cũng như trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động quốc tế. Một nguyên nhân quan trọng nữa là không có đầu mối nguồn hàng do Việt Nam chủ yếu xuất FOB và nhập CIF, ngoài ra có hạn chế về kết cấu hạ tầng logistics và chi phí vận tải trên đường bộ, phụ phí cảng biển do các chủ tàu nước ngoài áp đặt…

Ông Kim Lê Huy, Phó Chủ tịch ngành hàng tiêu dùng, Tổng Giám đốc DKSH Việt Nam
Ông Kim Lê Huy, Phó Chủ tịch ngành hàng tiêu dùng, Tổng Giám đốc DKSH Việt Nam cho biết, chi phí logistics là một thách thức vô cùng quan trọng và là yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến hiệu quả của chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Hiện nay, chi phí logistics của Việt Nam còn cao, chiếm khoảng 16-17% GDP, và chính phủ đã đặt mục tiêu giảm xuống 15% vào năm 2035.
“Chi phí này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt khi muốn vươn ra toàn cầu. Do đó, việc tối ưu hóa logistics trong nước là bước nền tảng để có thể tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng quốc tế” - ông Kim Lê Huy nhận định.
Liên kết để bứt phá logistics Việt
Theo ông Kim Lê Huy, một trong những thách thức lớn nhất của ngành logistics Việt Nam là sự thiếu hụt về quy mô (scale). Chi phí logistics sẽ giảm khi doanh nghiệp đạt được quy mô đủ lớn. Để giải quyết bài toán này, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), có 3 cách giải quyết.
Một là, mở rộng quy mô một cách chiến lược. “Đã đến lúc các SME nghiêm túc với bài toán mở rộng. Quy mô không nhất thiết phải ở tầm vóc rất lớn, mà có thể tập trung xây dựng trong "từng khu vực mình lựa chọn để phát triển” - ông Kim Lê Huy nói.
Hai là, sử dụng dịch vụ của bên thứ ba: Nếu quy mô kinh doanh vượt quá năng lực nội bộ, doanh nghiệp nên cân nhắc hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp.
Ba là, hợp tác, liên kết để tạo quy mô lớn hơn. Hình thức này giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh cạnh tranh bằng cách tận dụng thế mạnh của nhau, tối ưu hóa nguồn lực, giảm thiểu chi phí và mở rộng thị trường.
“Một trong những điểm đang hạn chế khả năng bùng nổ của ngành logistics hiện nay là tư duy riêng lẻ, thiếu liên kết. Các doanh nghiệp Việt còn e ngại trong việc hợp tác để “cùng phát triển thị trường” - ông Kim Lê Huy nêu.
Tổng Giám đốc DKSH Việt Nam cũng cho rằng thị trường cần thêm sự dẫn dắt, định hướng và kết nối từ các cơ quan nhà nước, tạo ra nhiều nền tảng, kết nối và xây dựng mạng lưới hỗ trợ doanh nghiệp, gom các nguồn lực nhỏ thành một quy mô lớn.

Hợp tác để phát triển là một trong những giải pháp quan trọng để tăng lợi thế cạnh tranh cho ngành logistic Việt Nam
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phát triển nội lực lõi và hoàn thiện bộ phận pháp lý của mình trước khi mở rộng ra bên ngoài. Đồng thời, các doanh nghiệp nên sử dụng công nghệ để xây dựng giá trị, không phải để theo trào lưu.
Doanh nghiệp, đặc biệt là SME phải cẩn trọng, không áp dụng công nghệ (như AI) chỉ để xây dựng hình ảnh hay vì sợ bị “lạc quẻ”, mà cần phải hiểu rõ mục tiêu cuối cùng để làm gì? Công nghệ phải giúp giải quyết vấn đề cụ thể và mang lại giá trị thực sự.
Tuy nhiên, mọi giải pháp công nghệ chỉ là công cụ. Yếu tố quyết định thành công là con người và khả năng thực thi. “Doanh nghiệp nên dành nhiều thời gian hơn cho con người, cho đối tác và cho việc xây dựng các mối quan hệ trong hệ sinh thái của mình” - ông Kim Lê Huy bày tỏ.
Ông Trần Thanh Hải cũng cho rằng, một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển của logistics chính là sự thiếu liên kết giữa các bên của chuỗi cung ứng và các bên liên quan của ngành, thể hiện qua tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics ở Việt Nam còn thấp so với các nước phát triển khác.
Nguyên nhân có thể bao gồm: Mức độ chuyên nghiệp của ngành logistics chưa cao, chưa tạo được niềm tin cho đối tác; tư duy của nhiều doanh nghiệp sản xuất, thương mại vẫn theo hướng tự làm khép kín mà chưa nhìn nhận được những ích lợi của việc thuê ngoài; thiếu kênh thông tin cho các doanh nghiệp sản xuất, thương mại vừa và nhỏ về giải pháp logistics, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics có năng lực.
Do đó, trong thời gian tới, nhằm thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics, bên cạnh những giải pháp căn cơ đã và đang được các cấp, các bên tích cực triển khai thực hiện như hoàn thiện cơ chế, chính sách, cải cách môi trường kinh doanh; hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics; tăng cường chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng của doanh nghiệp dịch vụ logistics; phát triển sản xuất, xuất nhập khẩu tạo nguồn hàng cho ngành dịch vụ logistics… thì một giải pháp cần lưu ý tập trung triển khai chính là việc củng cố, tăng cường các mối liên kết trong ngành.
Nằm ở trung tâm khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trên tuyến hàng hải quốc tế; đặc biệt có tuyến bờ biển dài, nhiều địa điểm có thể xây cảng nước sâu, cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết…, Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng để phát triển ngành dịch vụ logistics.











