Gỡ 'nút thắt' để ngành năng lượng Việt Nam phát triển bền vững
Việt Nam có tiềm năng lớn để đầu tư thêm các nguồn năng lượng tái tạo mới, tuy nhiên việc chuyển dịch sang năng lượng sạch không hề dễ dàng. Nguy cơ thiếu điện vẫn hiện hữu nếu không có các giải pháp hữu hiệu và kịp thời.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn "Triển vọng ngành năng lượng Việt Nam" do Báo Điện tử VOV - Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức ngày 12/10, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Đỗ Tiến Sỹ cho biết, Việt Nam thuộc danh sách các nước có tiềm năng lớn để đầu tư thêm các nguồn năng lượng tái tạo mới như: Điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối, điện sóng biển và khí sinh học Biogas, bên cạnh các nguồn năng lượng sẵn có như: Điện khí tự nhiên hóa lỏng, thủy điện và điện than.
"Tuy nhiên, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, trạng thái an ninh năng lượng Việt Nam chưa được bảo đảm, hiện tượng “sa thải phụ tải điện” xảy ra thường xuyên vào kỳ cao điểm. Dự trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi xảy ra khủng hoảng giá dầu trên thị trường quốc tế", ông Sỹ nhận định.
Thông tin về những khó khăn mà ngành năng lượng đang gặp phải, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công Nghệ và Môi trường Quốc hội Vương Quốc Thắng cho rằng, nhu cầu năng lượng tăng cao gây sức ép lên kết cấu hạ tầng ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Nguy cơ thiếu điện vẫn hiện hữu nếu không có các giải pháp hữu hiệu và kịp thời. Nguồn cung xăng dầu còn bị động, thiếu hụt và dễ tổn thương từ các tác động bất lợi từ bên ngoài.
“Đáng chú ý, việc hạn chế về nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước sẽ dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, nhất là nhiên liệu cho phát điện. Nếu chúng ta trở thành quốc gia nhập khẩu tịnh năng lượng và tỷ trọng của năng lượng nhập khẩu trên tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp tăng lên sẽ tác động đến an ninh năng lượng quốc gia” Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công Nghệ và Môi trường của Quốc hội Vương Quốc Thắng
Theo TS Chử Đức Hoàng, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), thế giới còn từ 70-100 năm để sử dụng 3 loại năng lượng truyền thống. Trong đó, than đá tiêu thụ mỗi năm bình quân là 7.320 triệu tấn, trong khi dự trữ than đá ước tính là 891.500 triệu tấn.
Dầu mỏ tiêu thụ mỗi năm 35 tỷ thùng, trong khi dự trữ dầu mỏ trên thế giới là 1.480 tỷ thùng; Khí đốt mỗi năm là 4.000 tỷ m3 trong khi dữ trữ khí đốt toàn cầu là 187.100 tỷ thùng.
“Việc phụ thuộc vào một số ít quốc gia sản xuất dầu mỏ, than đá và khí tự nhiên có thể tạo ra những rủi ro về an ninh năng lượng, nhất là khi xảy ra xung đột chính trị hoặc kinh tế”, TS Chử Đức Hoàng nói.
Do đó, theo ông Hoàng, Việt Nam cần phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, đổi mới công nghệ để tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng, tránh cạn kiệt.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang năng lượng sạch không dễ dàng. Việc xây dựng hệ thống cung cấp năng lượng sạch đòi hỏi đầu tư lớn. Cùng với đó, công nghệ trong sản xuất và lưu trữ năng lượng tái tạo vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn trong việc đảm bảo cung ứng năng lượng ổn định.
Vì vậy, cần phải có những chính sách hỗ trợ thích hợp để khuyến khích các doanh nghiệp và người dân tham gia vào việc sử dụng năng lượng sạch. Điều này đòi hỏi sự cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng từ phía chính quyền để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời đảm bảo lợi ích người tiêu dùng.
Rà soát, xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy đầu tư các dự án năng lượng
Trình bày tham luận tại diễn đàn, ông Hoàng Việt Dũng, Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương cho biết, nhu cầu năng lượng trong nước tăng khoảng 10% trong giai đoạn 2001 - 2010, khoảng 7% trong giai đoạn 2011 - 2019 trong khi nhu cầu về điện tăng 13%/năm trong giai đoạn 2001 - 2010 và khoảng 9,71% trong giai đoạn 2011 - 2021.
Phát thải khí nhà kính từ ngành năng lượng chiếm khoảng 63% tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam năm 2010, khoảng 67.7% năm 2020, và sẽ chiếm khoảng 73.1% và 79.7% vào năm 2030 và 2050 theo kịch bản thông thường.
Ông Hoàng Việt Dũng nêu dự báo, trong tương lai, các nguồn năng lượng sơ cấp sẽ không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu năng lượng sơ cấp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Từ thực trạng trên, ông Dũng cho rằng cần rà soát, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách cũng như hỗ trợ kỹ thuật và tài chính nhằm thúc đẩy các dự án đầu tư, sản xuất, kinh doanh về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Đặc biệt, Việt Nam cần nghiên cứu xây dựng trung tâm dữ liệu năng lượng, cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ thông tin về năng lượng và sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Đức Cường, chuyên gia cao cấp về năng lượng Tập đoàn T&T cho hay, Việt Nam hội tụ đầy đủ các tiền đề quan trọng, cần thiết để phát triển điện gió ngoài khơi đáng tin cậy và có chi phí hợp lý.
"Nhưng đến nay, Việt Nam chưa có đầy đủ công cụ pháp lý đủ mạnh, chẳng hạn như luật hoặc thấp hơn là nghị định về phát triển năng lượng tái tạo. Phần lớn các văn bản về thể chế và chính sách đã ban hành trong thời gian qua hoặc được lồng ghép vào các quyết định hoặc chiến lược" Ông Nguyễn Đức Cường, chuyên gia cao cấp về năng lượng Tập đoàn T&T
Riêng với điện gió ngoài khơi, ông Nguyễn Đức Cường cho rằng chưa thấy có tiêu chí hoặc thuật ngữ định nghĩa thế nào là một dự án điện gió ngoài khơi. Do vậy, cần phân định cụ thể trong kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII ranh giới giữa điện gió trên bờ và ngoài khơi. Nếu không làm rõ được vấn đề này sẽ gây ra vướng mắc cho cả nhà đầu tư lẫn địa phương và các bộ, ngành.