GÓC NHÌN CHUYÊN GIA: ĐẨY MẠNH GIẢI NGÂN VỐN ĐẦU TƯ CÔNG THÚC ĐẨY PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có nhiều biện pháp thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế về năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và sự thiếu hụt, chưa toàn diện về cơ chế, chính sách trong việc lập kế hoạch, phân bổ, điều chỉnh và thực hiện vốn đầu tư công, gây khó cho hoạt động giải ngân vốn đầu tư công. Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết của PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Giảng viên cao cấp, Học viện Tài chính: 'Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế'

CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - GIẢI PHÁP TRỌNG YẾU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Số liệu từ Bộ Tài chính cho biết, ước thanh toán vốn đầu tư công (ĐTC) đến ngày 30/9/2023 đạt khoảng 363.310 tỷ đồng, đạt 51,38% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 cả về số tương đối và số tuyệt đối. Năm 2022, tỷ lệ giải ngân sau 9 tháng là 46,7%. Như vậy, tỷ lệ giải ngân 9 tháng năm nay đã cao hơn cùng kỳ năm ngoái 4,68 %. Nếu so về con số tuyệt đối, cao hơn 110.000 tỷ đồng.

Trong số vốn giải ngân 363.310 tỷ đồng của 9 tháng, vốn trong nước là 355.374,7 tỷ đồng (đạt 52,33% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao), vốn nước ngoài là 7.935,9 tỷ đồng (đạt 28,37% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Số vốn giải ngân từ nguồn Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội là 49.470 tỷ đồng, đạt 38,4% kế hoạch Thủ tướng giao.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính riêng trong tháng 9/2023, số vốn kế hoạch đầu tư công năm 2023 giải ngân là 62.968 tỷ đồng. Như vậy, trung bình 9 tháng đầu năm, số vốn đầu tư công giải ngân trong tháng đạt trên 40.000 tỷ đồng/tháng. Mặc dù tốc độ giải ngân đã tăng lên nhanh chóng từng tháng, nhưng lượng vốn ĐTC giải ngân đến hết năm ngân sách còn rất lớn (343.794 tỷ đồng, tức 48,62% tổng vốn ĐTC của năm).

Giải ngân ĐTC không chỉ tăng về vốn, mà công tác đầu tư cũng đã đi vào thực chất hơn từ khi thực hiện Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 Hà Nội, ngày 13/06/2019 có hiệu lực từ 01/01/2020 (thay thế Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 28/2018/QH14). Các dự án đầu tư công bước đầu đã mang lại những hiệu quả nhất định, tạo nên sức bật mới cho kinh tế địa phương, vùng và quốc gia, trở thành một động lực để nền kinh tế hồi phục và phát triển.

Hoạt động giải ngân vốn ĐTC trong thời gian qua đã được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương quan tâm và có nhiều biện pháp để thúc đẩy tiến độ giải ngân. Hoạt động giải ngân vốn ĐTC chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố cả khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, việc giải ngân chậm vốn ĐTC của các bộ, ngành, địa phương chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, do cơ chế và do năng lực của các chủ đầu tư và ban quản lý dự án còn hạn chế. Đồng thời, những cản trở, sự thiếu hụt và chưa toàn diện về cơ chế, chính sách trong việc lập kế hoạch ĐTC, trong phân bổ vốn, trong việc điều chỉnh và thực hiện vốn ĐTC đang gây khó cho hoạt động giải ngân vốn ĐTC.

* Nguyên nhân quan trọng gây chậm trễ trong giải ngân vốn ĐTC trong khâu chuẩn bị đầu tư được địa phương phản ánh nhiều nhất là các vướng mắc về thủ tục pháp lý liên quan đất đai, công tác giải phóng mặt bằng.

Thứ nhất, về cơ sở pháp lý trong giải phóng mặt bằng như việc thực hiện quy định về phương pháp định giá đất còn chưa thống nhất; quy hoạch sử dụng đất đã được công bố nhưng chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện; có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được phê duyệt nhưng không còn phù hợp với quy hoạch mới của cấp trên (các quy hoạch của cấp trên trước đó không còn phù hợp đang phải rà soát, điều chỉnh, cập nhật theo quy định); về điều chỉnh chủ trương đầu tư; về thẩm quyền chuyển nhượng dự án;... gây khó khăn cho công tác bồi thường hỗ trợ tái định cư, công tác giao đất, thuê đất, công tác xác định tiền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lúa…

Thứ hai, việc tính toán giá đất đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi đất rừng, đất lúa mất nhiều thời gian; giá nguyên vật liệu tăng cao; các dự án giao thông cần một khối lượng lớn đất cấp phối để phục vụ thi công nhưng thời gian xin giấy phép khai thác mỏ dài và số lượng mỏ đất đá hạn chế... cũng ảnh hưởng đến việc giải ngân vốn ĐTC.

Thứ ba, công tác chuẩn bị dự án, phê duyệt dự án trong thời gian trước được thực hiện sơ sài, khiến nhiều dự án sử dụng vốn ĐTC khi được phân bổ vốn lại chưa đủ điều kiện chuẩn bị đầu tư, hoặc do thời gian chuẩn bị quá lâu, các yếu tố tác động đến hiệu quả dự án thay đổi cần chỉnh sửa, điều chỉnh quy hoạch, thiết kế nên chưa thể khởi công. Đặc biệt là các dự án vay ưu đãi ODA khi cần thực hiện điều chỉnh dự án (tổng mức đầu tư, gia hạn thời gian thực hiện, phạm vi dự án, thiết kế chi tiết các hạng mục xây lắp...); gia hạn, điều chỉnh Hiệp định vay phải tuân theo quy định của các Nghị định liên quan đến vay vốn, sửa đổi Hiệp định vay vốn của Chính phủ, Quy trình sửa đổi Hiệp định vay đối với các dự án cụ thể trải qua nhiều khâu, báo cáo nhiều cơ quan… nên đã kéo dài thời hạn giải ngân.

Thứ tư, việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư công trong thời gian trước đây thường chậm trễ, tạo ra thói quen và sự trì chệ, chậm triển khai hoạt đông đầu tư trong các tháng đầu năm, thường chỉ được đẩy mạnh vào các tháng cuối năm. Từ cuối năm 2019 đã được giao rất sớm từ đầu năm theo kế hoạch cho các địa phương, Bộ, ngành. Tuy nhiên, việc phân bổ vốn của các địa phương, Bộ ngành cho các dự án còn chậm trễ, gây bị động cho các chủ đầu tư dự án. Năm 2022, 2023 do việc ban hành văn bản quy định và phân bổ các nguồn vốn thực hiện Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia chậm nên việc phân bổ một bộ phận vốn ĐTC bị chậm phân bổ cũng kéo chậm tốc độ giải ngân vốn ĐTC.

Thứ năm, nhiều chủ dự án đầu tư công chưa chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện, các các thủ tục để triển khai các công việc từ giải phóng mặt bằng, đấu thầu, đàm phán với các nhà tài trợ, ký kết hợp đồng..., nên tiến trình thực hiện dự án bị chậm lại. Đồng thời, khi xây dựng các dự án để vay vốn ưu đãi của các tổ chức quốc tế và các nước tài trợ, các địa phương tỉnh, thành phố đã cam kết sẽ bố trí đủ vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng. Nhưng đến khi có dự án, lại gặp nhiều khó khăn về vốn đối ứng, gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng.

Thứ sáu, đối với các dự án ĐTC sử dụng vốn vay nước ngoài đều phải áp dụng các yêu cầu của cả 2 hệ thống quản lý của nhà nước Việt Nam và nhà tài trợ và thủ tục thường bị kéo dài nên việc triển khai đã bị tác động bởi các thủ tục này. Thậm chí, có một số quy định mới được đàm phán bổ sung vào các dự án và có hiệu lực, nên việc áp dụng còn lúng túng, trình tự thủ tục kéo dài, làm cho dự án triển khai chậm.

Nguồn: Bộ Tài chính.

Nguồn: Bộ Tài chính.

* Trong khâu thực hiện dự án cũng còn nhiều trở ngại cản trở tốc độ giải ngân vốn ĐTC. Cơ chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành, địa phương còn chưa kịp thời, đồng bộ, một số chính quyền địa phương chưa phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư để thực hiện các hồ sơ, thủ tục của dự án cũng đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc giải ngân vốn ĐTC:

Thứ nhất, nhiều dự án không có khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán do chưa hoàn thành thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư, tiến trình triển khai chậm; chậm xử lý đơn rút vốn; chậm thực hiện điều chỉnh dự án...nên mặc dù dự án đã có khối lượng hoàn thành nhưng không thể giải ngân.

Thứ hai, công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án còn tồn tại bất cập, dẫn tới tính sẵn sàng của dự án thấp; dự án sử dụng vốn hỗn hợp trong nước và nước ngoài gặp vướng mắc về thủ tục cho vay lại, chậm ký hợp đồng cho vay lại; việc chuyển nguồn, hạch toán ghi thu – ghi chi, tạm ứng còn chậm, ảnh hưởng đến công tác tổng hợp, phê duyệt đơn rút vốn; nhiều chủ dự án chậm trễ thực hiện thủ tục hoàn chứng từ cho các khoản rút vốn từ tài khoản đặc biệt, nhà tài trợ phê duyệt hồ sơ rút vốn bổ sung tài khoản đặc biệt cho các khoản chi nhỏ lẻ thường kéo dài.

Thứ ba, từ cuối năm 2020 đến nay nhiều loại nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho đầu tư xây dựng khan hiếm và giá tăng cao, khiến nhiều dự án ĐTC gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Chỉ từ nửa cuối năm 2022 đến nay nhiều vật tư, nguyên nhiên vật liệu phục vụ đầu tư mới giảm giá, và nguồn hàng cũng đỡ khan hiếm hơn, đang hỗ trợ cho quá trình giải ngân vốn ĐTC.

Trước hết, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội nên việc thi công nhiều dự án đầu tư công phải tạm đình hoãn. Đồng thời, do dịch Covid-19, Việt Nam vẫn tiếp tục đóng cửa các đường bay quốc tế, các khâu từ nhập máy móc, thiết bị cho đến huy động chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài, tư vấn giám sát để thực thi các dự án đầu tư công đều bị ảnh hưởng. Chỉ từ cuối năm 2021, đầu năm 2022 khó khăn này mới được giải quyết khi Chính phủ quyết định mở cửa trở lại toàn bộ nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Thứ hai, một số dự án ĐTC đã được bố trí kế hoạch vốn ODA và vay ưu đãi nhưng đang phải thực hiện các thủ tục điều chỉnh dự án (như gia hạn thời gian thực hiện dự án, gia hạn thời gian giải ngân, điều chỉnh phân bổ các hạng mục sử dụng vốn) điều chỉnh hiệp định vay nên không đủ cơ sở để giải ngân, vì vậy việc giải ngân vốn ĐTC có liên quan đến yếu tố nước ngoài thường chậm trễ.

Thứ ba, một số dự án phía nhà tài trợ nước ngoài chậm xử lý các vấn đề như: thời gian cấp ý kiến không phản đối đối với hoạt động mua sắm, tuyển tư vấn của một số dự án kéo dài; một số nhà tài trợ yêu cầu sử dụng tư vấn của nước tài trợ trong thực hiện dự án nhưng chất lượng của tư vấn còn hạn chế, không đảm bảo tiến độ dự án trong khi vai trò, quan điểm của nhà tài trợ đối với hoạt động của tư vấn là không rõ ràng…

Để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn ĐTC, cần sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, sự phối hợp của nhiều ban ngành, địa phương và quyết tâm thực hiện đồng bộ và toàn diện với nhiều biện pháp:

- Các Bộ, ngành, địa phương cần chấn chỉnh công tác lập dự án ĐTC từ dự án sơ bộ, dự án tiền khả thi và dự án khả thi để đảm bảo sự cần thiết, tính khoa học, tính thực tiễn, tính phù hợp với từng địa phương, từng thời kỳ, đảm bảo hiệu quả kinh tế và tính khả thi của dự án.

- Các Bộ ngành, địa phương cần khẩn trương rà soát, kiểm tra kỹ và tiến hành phân bổ hết vốn chi tiết cho từng dự án, trên cơ sở đó hỗ trợ các chủ đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án để có khối lương hoàn thành đúng quy định để giải ngân.

- Các Bộ, ngành, địa phương và chủ dự án có trách nhiệm khẩn trương hoàn tất các thủ tục về chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng, về di dân tái định cư, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện dự án. Xử lý dứt điểm các tồn tại, vướng mắc của các dự án đầu tư lớn, tập trung đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư có tiềm năng giải ngân, các dự án đã hoàn tất các thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, triển khai ngay việc ký kết đối với các gói thầu đã có ý kiến “không phản đối” của nhà tài trợ nước ngoài.

Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, cần quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu trong việc triển khai thực hiện dự án và giải ngân vốn đầu tư công. (ảnh minh họa)

Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, cần quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu trong việc triển khai thực hiện dự án và giải ngân vốn đầu tư công. (ảnh minh họa)

- Các Bộ ngành có trách nhiệm bố trí đủ vốn đối ứng để thanh toán theo dự toán được giao trong các dự án có liên quan đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài; phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để giải quyết các vướng mắc phát sinh liên quan đến các thủ tục và các yêu cầu giải ngân.

- Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư cần trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài trong các dự án có vay vốn quốc tế để tiến hành rà soát, hài hòa các yêu cầu, thủ tục quản lý và cấp vốn, giảm các thủ tục phê duyệt không cần thiết, đẩy nhanh thời gian phê duyệt các vấn đề cần xin ý kiến không phản đối. Đối với các dự án đang trong giai đoạn thuê tuyển tư vấn để lập tổng mức đầu tư,... cần có các giải pháp giám sát chất lượng, tiến độ của tư vấn, tránh để các vướng mắc, chậm trễ kéo dài, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án…

- Đối với chương trình, dự án đầu tư công thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ cần điều chỉnh chủ trương đầu tư, các Bộ, ngành, địa phương cần báo cáo sớm với Bộ Kế hoạch Đầu tư để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương điều chỉnh đầu tư. Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh chủ trương đầu tư, Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc điều chỉnh thời hạn giải ngân, phân bổ vốn theo quy định, tuân thủ Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý nợ công hoặc theo các hiệp định vay đã ký và các điều chỉnh khác của hiệp định vay (nếu phát sinh) …

- Các chủ dự án khẩn trương lập hồ sơ nghiệm thu đối với công việc có khối lượng đầu tư đã hoàn thành, gửi Kho bạc Nhà nước xác nhận giá trị khối lượng hoàn thành. Trên cơ sở đó, thực hiện đầy đủ các thủ tục, chứng từ để đẩy nhanh tốc độ cấp vốn theo các hình thức thanh toán đã được các bên thống nhất.

- Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm và có các quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương, các chủ dự án trong việc triển khai thực hiện dự án và giải ngân vốn ĐTC. Trách nhiệm và vai trò người đứng đầu của các cơ quan ban, ngành phải được thực hiện từ khâu lập kế hoạch đầu tư sơ bộ, đến lập dự án tiền khả thi, lập dự án khả thi, kiểm tra, giám sát, thẩm định các dự án, đến các khâu giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư dự án... Đồng thời, cần tăng cường năng lực tổ chức thực hiện dự án ĐTC ở cấp cơ quan chủ quản, chủ đầu tư và ban quản lý dự án, đảm bảo đội ngũ cán bộ quản lý dự án có năng lực, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng chuyên môn và trách nhiệm cao với công việc.

- Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thi công; thực hiện nghiệm thu, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng. Rà soát, điều chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang dự án có tiến độ giải ngân tốt, còn thiếu vốn. Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ ứng dụng của cuộc cách mạng 4.0 nên quy trình cấp vốn cần nhanh chóng được xem xét, rút gọn tối đa các thủ tục không cần thiết để rút ngắn thời gian và thủ tục cấp vốn.

- Phát huy cao nhất vai trò của Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ được thành lập theo Quyết định 1242/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 và Quyết định 290/QĐ-TTg ngày 23/3/2023 về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư tại các bộ, ngành và địa phương, thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ đầu tư công đã được Chính phủ giao.

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=81647