Gói ghém yêu thương, ước vọng, tâm tình của đồng bào Lự vào không gian văn hóa độc đáo
Giữa sắc núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, nơi mây mù quyện trên đỉnh Pu Ta Leng, người Lự ở Lai Châu vẫn lưu giữ một kho tàng lễ hội văn hóa lâu đời. Trong đó, Lễ hội Sú Khon Khoài là điểm sáng đặc biệt, kết tinh đời sống tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc tộc người. Không đơn thuần là nghi lễ nông nghiệp, Sú Khon Khoài còn là không gian hội tụ cộng đồng, là nơi hồn cốt người Lự hòa cùng nhịp đất trời, kết nối quá khứ và hiện tại trong một dòng chảy văn hóa chưa bao giờ ngưng nghỉ...

Cúng hồn trâu là nghi thức chính trong lễ hội Sú Khon Khoài được đồng bào dân tộc Lự tôn vinh là chủ đề chính trong lễ hội. Ảnh: Thủy Lê
Khúc mở đầu từ mùi hương của lúa
Trên những triền ruộng bậc thang vàng óng trải khắp các bản làng người Lự như Nà Tăm, Tà Chải, Sì Thâu Chải... ở huyện Tam Đường, mùa gặt về không chỉ là dịp vui mùa no ấm, mà còn là lời mời của đất trời để bà con sum họp trong Lễ hội Sú Khon Khoài. Trong tiếng Lự, “Sú” có nghĩa là lễ, “Khon Khoài” là mừng cơm mới, Sú Khon Khoài có nghĩa là Lễ mừng cơm mới, đây là một nghi thức thiêng liêng được tổ chức vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 hằng năm, khi hạt lúa đã vàng trĩu, khi nhà nhà đã gặt xong vụ mùa.
Mỗi khi lễ hội bắt đầu, cả bản rực rỡ như vừa khoác lên tấm áo mới. Phụ nữ Lự trong váy áo chàm đen thêu hoa văn cầu kỳ, búi tóc cao cài trâm bạc. Đàn ông vận áo dài, tay cầm khèn bè, ống sáo. Trẻ nhỏ nô nức đuổi nhau bên sân nhà, tiếng cười xen lẫn hương cốm mới, hương xôi nếp thơm, quyện trong mùi khói bếp, khói hương thành thứ không khí hội làng không đâu có được. Trước ngày lễ chính, trưởng bản và các hộ gia đình bắt đầu chuẩn bị lễ vật. Trong đó, không thể thiếu là “khon khoài”, tức gạo nếp mới thu hoạch, đồ thành xôi, nấu thành cơm, nắm thành quả dâng lên trời đất. Bên cạnh đó là gà trống luộc, cá suối nướng, rượu ngô thơm, những sản vật của mùa màng đong đầy lòng biết ơn.
Lễ chính được cử hành tại nhà trưởng bản hoặc một bãi đất thiêng giữa bản. Thầy mo mặc trang phục truyền thống, bắt đầu cúng bái tổ tiên, thần lúa, thần núi, thần sông... cầu cho mùa màng năm sau tiếp tục tốt tươi, dân bản an vui, mưa thuận, gió hòa. Tiếng khấn rì rầm hòa trong âm vang chiêng trống, khèn bè là những nhạc cụ cổ truyền làm bằng tre, vầu, gắn bó với đời sống tinh thần người Lự bao đời. Điểm đặc biệt là trong nghi thức cúng lễ, người Lự không chỉ mời thần linh, mà còn “mời” linh hồn tổ tiên về dự lễ, cùng ăn cơm mới, cùng chứng giám lòng thành. Đây là biểu hiện sâu sắc cho đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, nét văn hóa đạo đức của người Lự nói riêng và các tộc người Tây Bắc nói chung.
Nếu nghi lễ là phần linh thiêng thì phần hội là không gian rộn ràng, sống động, chan chứa niềm vui. Sau khi kết thúc cúng tế, người dân quây quần trong mâm cơm truyền thống: xôi nếp thơm dẻo, thịt nướng mắc khén, cá suối gói lá rong, canh măng rừng, rau dớn luộc chấm chẩm chéo. Họ cùng nhau nâng chén rượu ngô thơm nồng, trò chuyện về mùa cũ, ước vọng cho mùa sau.
Tiếp đó, các trò chơi dân gian: ném pao, kéo co, đẩy gậy, nhảy sạp... bắt đầu. Tiếng cười nối tiếp tiếng hát, trai gái Lự rủ nhau múa hát dân ca, hát đối, nhảy khèn trong điệu nhạc rộn ràng. Những điệu múa xòe uyển chuyển, mềm mại, biểu trưng cho sự gắn kết cộng đồng, sự chuyển động của mùa màng, của vũ trụ. Một trong những điểm thu hút du khách đến với lễ hội là các màn trình diễn nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, làm bánh khảo, giã cốm, nấu rượu men lá... Những bàn tay khéo léo của phụ nữ Lự vừa thao tác, vừa kể chuyện đời, chuyện bản, tạo nên một bảo tàng sống động của văn hóa tộc người.

Kết thúc lễ hội, bà con tay trong tay múa vòng xòe đoàn kết. Ảnh: Thủy Lê
Bảo tồn và phát triển
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, khi văn hóa truyền thống đang đối diện với nguy cơ mai một, thì việc phục dựng và duy trì Lễ hội Sú Khon Khoài chính là một nỗ lực gìn giữ hồn cốt dân tộc. Chính quyền địa phương đã phối hợp cùng các nghệ nhân và cộng đồng người Lự để khôi phục đầy đủ cả phần lễ và phần hội, đưa Sú Khon Khoài trở thành một trong những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của tỉnh Lai Châu. Không chỉ dừng lại ở giá trị văn hóa, lễ hội còn mở ra cơ hội phát triển du lịch cộng đồng. Nhiều bản làng người Lự đã đón khách du lịch đến trải nghiệm lễ hội, lưu trú trong nhà sàn, ăn món ăn bản địa, tham gia múa hát cùng dân bản. Điều này vừa tạo sinh kế mới cho người dân, vừa góp phần lan tỏa bản sắc văn hóa đến bạn bè gần xa.
Chị Lự Thị Lành, một nghệ nhân dân gian ở bản Nà Tăm xúc động nói: “Từ ngày được tổ chức lại, lễ hội Sú Khon Khoài như làm sống lại cả bản. Thanh niên cũng chịu học thổi khèn, múa xòe, phụ nữ trẻ biết thêu thùa, may vá. Như thế là tổ tiên mỉm cười rồi!”.
Lễ hội Sú Khon Khoài không chỉ là hồi ức của quá khứ, mà còn là lời gửi gắm tới tương lai. Qua từng lớp người, từng thế hệ, những câu hát dân ca, điệu múa truyền thống, nghi thức thiêng liêng được truyền dạy lại trong các lớp học văn hóa cộng đồng, các câu lạc bộ văn nghệ dân gian. Điều xúc động là trẻ em người Lự hôm nay, giữa thời đại công nghệ và mạng xã hội, vẫn yêu thích học múa khèn, thổi sáo, học cách gói bánh khảo, nấu rượu men lá. Những hình ảnh ấy như những mạch nước nhỏ góp phần làm nên dòng sông văn hóa không bao giờ cạn.
Từ một lễ hội dân gian gắn với tín ngưỡng nông nghiệp, Sú Khon Khoài đã trở thành không gian văn hóa tiêu biểu, vừa linh thiêng, vừa sinh động. Nó là sợi dây liên kết giữa con người và thiên nhiên, giữa cộng đồng và tổ tiên, giữa truyền thống và hiện đại. Trong khói hương của nắm cơm mới, trong tiếng khèn vang rền trên nẻo núi cao, người Lự gửi vào đó tất cả yêu thương, biết ơn và hy vọng cho một tương lai no ấm, bền lâu. Giữ gìn lễ hội không chỉ là giữ một ngày vui, mà là giữ cả một bản sắc, một tâm hồn, thứ đã nuôi dưỡng người Lự suốt bao đời nay giữa đại ngàn Tây Bắc.