Góp ý dự thảo nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới, giải quyết vấn đề cấp thiết ở phụ nữ và trẻ em
Nhiều ý kiến, đề xuất thiết thực được thảo luận tại hội thảo tham vấn, góp ý hoàn thiện đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8 'Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em'.
Ngày 31/5, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức hội thảo tham vấn, góp ý hoàn thiện đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” thuộc chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030.

Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Minh Hương phát biểu tại chương trình.
Phát biểu tại hội thảo, Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam Nguyễn Thị Minh Hương cho biết, sau 5 năm thực hiện, dự án 8 cơ bản hoàn thành 4 nhóm nội dung hoạt động trọng tâm; 8/9 chỉ tiêu cốt lõi đạt và vượt kế hoạch giai đoạn, trong đó có 4 chỉ tiêu vượt cao so với kế hoạch: Tổ truyền thông cộng đồng, địa chỉ tin cậy, câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”, nâng cao năng lực cho cán bộ nữ dân tộc thiểu số... Bên cạnh những thành quả đáng ghi nhận, vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc, bà Nguyễn Thị Minh Hương kỳ vọng tại hội thảo, các chuyên gia, đại biểu thuộc các cơ quan, tổ chức sẽ đóng góp, phản biện dự thảo.


Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Hội LHPN Việt Nam trình bày dự thảo đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8.
Trình bày dự thảo đề xuất nội dung, giải pháp các hoạt động dự án 8, bà Nguyễn Thị Kim Dung, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Hội LHPN Việt Nam cho biết, trong giai đoạn tới, Trung ương Hội tiếp tục đề xuất các nội dung, giải pháp thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và tập trung giải quyết hiệu quả một số vấn đề xã hội cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) trong bối cảnh mới.
Trong đó dự kiến 4 nhóm chính sách cụ thể như: Tuyên truyền, vận động thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" thúc đẩy bình đẳng giới vùng DTTS; hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ vùng đồng bào DTTS&MN; hỗ trợ giải quyết một số vấn đề xã hội cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em vùng đồng bào DTTS&MN; thúc đầy vai trò lãnh đạo, sự tham gia thực chất của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực lồng ghép giới cho cán bộ trong hệ thống chính trị.
Cùng với đó, Trung ương Hội đề xuất lồng ghép giới trong chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN theo 5 nội dung trụ cột: Đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng; hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập của đồng bào DTTS; phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS&MN; hỗ trợ DTTS có khó khăn đặc biệt, DTTS rất ít người; các hoạt động thông tin tuyên truyền, giám sát, đánh giá việc thực hiện lồng ghép giới trong chương trình.

Bà Lê Thúy Hạnh, Quản lý Chương trình Bình đẳng giới và Quyền phụ nữ tham dự, Tổ chức Oxfam góp ý tại hội thảo.
Góp ý, phản biện Dự thảo đề xuất dự án trong giai đoạn mới, bà Lê Thúy Hạnh, Quản lý Chương trình Bình đẳng giới và Quyền phụ nữ tham dự, Tổ chức Oxfam (tổ chức toàn cầu đấu tranh chống bất bình đẳng) cho biết, Việt Nam đang đứng trước thách thức kép: Vừa thúc đẩy phát triển bền vững và công bằng xã hội, vừa đối mặt với các tác động ngày càng trầm trọng của biến đổi khí hậu (BĐKH). Các vùng đồng bào DTTS&MN, nơi hội tụ của nhiều yếu tố bất lợi như nghèo đói, hạ tầng yếu kém, phân biệt đối xử và rào cản tiếp cận thông tin, đang là điểm nóng của các rủi ro đa chiều.
“Chúng tôi đề xuất tích hợp phân tích khí hậu và xây dựng mô hình thích ứng có nhạy cảm giới, xây dựng và phổ biến bộ công cụ phân tích rủi ro khí hậu theo giới, áp dụng trực tiếp vào thiết kế mô hình sinh kế bền vững, xây dựng các cộng đồng an toàn ứng phó thiên tai và nâng cao năng lực thích ứng cho phụ nữ DTTS. Dự án GRAISEA của chúng tôi tại đồng bằng sông Cửu Long đang có những thành công nhất định trong việc tích hợp phân tích và thiết kế chương trình bình đẳng giới và khí hậu và giới bằng cách hỗ trợ phụ nữ DTTS tiếp cận kỹ thuật canh tác giảm phát thải, làm chủ các nhóm hợp tác sản xuất, tiếp cận tài chính xanh, qua đó nâng cao vai trò và quyền kinh tế cho phụ nữ. Đặc biệt, lồng ghép giới vào ngân sách và đầu tư cơ sở hạ tầng thích ứng BĐKH. Trong đó, ưu tiên đầu tư cho các cơ sở hạ tầng thiết yếu như hệ thống cảnh báo sớm, hệ thống nước sạch, tưới tiêu, trạm y tế ứng phó thiên tai tại các địa phương có đông phụ nữ DTTS, đảm bảo các hạ tầng này đáp ứng đầy đủ nhu cầu và an toàn cho phụ nữ. Ví dụ các dự án xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai sớm bằng tiếng dân tộc và các trung tâm an toàn thiên tai dành riêng cho phụ nữ tại vùng núi Tây Bắc Việt Nam đã giúp phụ nữ tiếp cận dịch vụ an toàn và kịp thời trong thiên tai”, bà Lê Thúy Hạnh kiến nghị.

Ông Đặng Đình Ngọc chuyên gia Tổ chức Care tại Việt Nam góp ý dự thảo.
Cũng tại hội thảo, ông Đặng Đình Ngọc chuyên gia Tổ chức Care tại Việt Nam (tổ chức toàn cầu hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo) cho biết, vùng thực hiện Dự án 8 hầu như trùng với vùng thực hiện của Chương trình Mục tiêu Quốc gia DTTS&MN. Một số hạn chế quan sát được như: Năng lực tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức của người dân hạn chế, chưa đáp ứng được các điều kiện của các tổ chức cung ứng dịch vụ; khả năng quản trị vốn của người dân cho phát triển còn hạn chế, người dân có xu hướng vay khoản vốn nhỏ phù hợp với khả năng quản lý của họ để chi dùng cho các mục tiêu khác nhau trong đó đầu tư cho chăn nuôi, trồng trọt quy mô nhỏ vẫn chiếm tỉ lệ lớn…
Từ thực tế đó, ông Đặng Đình Ngọc nhận định vẫn tồn tại khoảng cách giữa các hình thức tiếp cận tài chính không chính thức và tài chính chính thức do những hạn chế về năng lực tiếp cận và năng lực quản trị của người dân và các mô hình mang tính truyền thống này đóng vai trò trung gian hướng đến tài chính chính thức.
“Trong phạm vi Dự án 8 giai đoạn 2026 - 2030, chúng đề xuất Trung ương Hội tiếp tục quan tâm: Nghiên cứu, cải tiến mô hình hoạt động của các tổ nhóm trên cơ sở các văn bản pháp lý hiện tại; phân loại các nhóm theo năng lực tiếp cận (thường gắn với quy mô tiết kiệm) để có chiến lược hỗ trợ phù hợp. Cụ thể: Nghiên cứu, chuyển đổi các nhóm từ mô hình hoạt động có rủi ro pháp lý cao hơn sang mô hình có độ an toàn pháp lý cao hơn, bởi đây là cách làm tiên tiến, tăng dần độ khó để các nhóm có khả năng thích nghi cao hơn; kết nối các nhóm có năng lực tốt với hệ thống tài chính chính thức để họ có thể bước sang giai đoạn phát triển mới…”, ông Đặng Đình Ngọc đề xuất.