Góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIV: 'La bàn' chiến lược cho cải cách thể chế
Công cuộc 'Đổi mới lần thứ hai' với trọng tâm về cải cách thể chế chính là sứ mệnh lịch sử để nâng cấp toàn bộ hệ điều hành quốc gia, đưa đất nước thật sự bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Đột phá chiến lược
Trong suốt tiến trình phát triển của đất nước, xây dựng và hoàn thiện thể chế luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
Cải cách thể chế được đề cập rõ nét từ Đại hội VI của Đảng với tư duy "đổi mới toàn diện" về thể chế, thừa nhận kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của Đảng, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Ðại hội X tiếp tục nhấn mạnh việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XIII, Đảng xác định nhiệm vụ về cải cách thể chế là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là các yếu tố thị trường sản xuất, đặc biệt là thị trường quyền sử dụng đất và khoa học - công nghệ.
Nhiệm vụ này được coi là một trong ba đột phá chiến lược để tạo động lực phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Trong bối cảnh đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện nhiều điểm mới rõ nét, cho thấy tầm nhìn chiến lược, tư duy phát triển toàn diện và khát vọng mạnh mẽ của Đảng trong giai đoạn mới để biến tầm nhìn thành động lực phát triển thực chất.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định định hướng đột phá: "Xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước".
Với quan điểm này, theo nhiều chuyên gia, việc hoàn thiện thể chế đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, vừa có tính chính trị sâu sắc, vừa là yêu cầu thực tiễn cấp thiết nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn phát triển, gia tăng sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng tăng trưởng và bảo đảm ổn định vĩ mô trong dài hạn.
Sở dĩ có sự khẳng định mạnh mẽ vai trò của thể chế trong bối cảnh hiện nay là do dự thảo văn kiện đã nêu rõ những hạn chế, yếu kém do việc hoàn thiện thể chế phát triển trong thời gian vừa qua còn chậm. Một số luật, cơ chế, chính sách, quy định, thủ tục hành chính còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu đồng bộ, gây cản trở đối với sự phát triển.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dưới mức tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đề ra. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm ước đạt 5,3%, thấp hơn mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, năng lực, trình độ công nghệ còn yếu, thiếu những ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ chiến lược làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan là do bối cảnh quốc tế thay đổi rất nhanh, nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp, ngoài dự báo; ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, thiên tai và biến đổi khí hậu...
Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan là do nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền và lãnh đạo một số cơ quan, tổ chức, người đứng đầu còn hạn chế; nhiều yếu kém, bất cập tồn đọng, tích tụ từ trước chưa được xử lý triệt để, gây hệ lụy kéo dài.
Hệ thống thể chế phát triển chưa đồng bộ, trở thành "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Một bộ phận cán bộ chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ. Năng lực dự báo tình hình, tư duy và tầm nhìn chiến lược còn hạn chế; "tư duy nhiệm kỳ", "lợi ích nhóm" chưa được khắc phục triệt để; chưa phát huy hiệu quả vai trò "giám sát" của nhân dân.
Dự thảo văn kiện khẳng định, đây là những vấn đề cần tập trung khắc phục, sớm giải quyết dứt điểm để tạo nền tảng, điều kiện cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Theo đó, dự thảo văn kiện đặc biệt nhấn mạnh đến việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới, tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Để làm được điều này, dự thảo nêu rõ, cả nước cần tiếp tục hoàn thiện, triển khai hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền, phân công, cơ chế hoạt động, kiểm tra, giám sát và mối quan hệ giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị cả Trung ương và địa phương bảo đảm hoạt động thông suốt, đồng bộ, nhịp nhàng; nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, phản biện xã hội và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nhất là đối với Nhà nước gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, năng lực quản trị quốc gia kiến tạo phát triển.
Thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, tạo đột phá để sớm hoàn thiện đồng bộ. Mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội cần được giải quyết đúng đắn, khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm thuận lợi, công khai, minh bạch, ổn định, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực và tạo động lực mới cho phát triển.
Đồng thời, dự thảo văn kiện nhấn mạnh, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp để xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính.
Phương thức quản lý nhà nước cần chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn để quản lý và tăng cường kiểm tra, giám sát; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, góp phần nâng cao rõ rệt chỉ số cải cách hành chính quốc gia trên các bảng xếp hạng quốc tế.
Đặc biệt, thể chế cần sớm được hoàn thiện để nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, sức mạnh tổng hợp và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các doanh nghiệp Việt Nam.
Tạo "hạ tầng mềm" cho phát triển bền vững
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Ủy viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, dự thảo văn kiện đã rất đúng đắn khi đặt nhiệm vụ "xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước" lên hàng đầu.
Theo ông Dũng, sau gần bốn thập niên Đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, khi các nguồn lực truyền thống như lao động giá rẻ, vốn đầu tư nước ngoài hay tài nguyên thiên nhiên sẵn có, đang dần tới giới hạn, vì thế thể chế trở thành nguồn lực quan trọng nhất để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.
Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, cạnh tranh giữa các quốc gia, xét đến cùng, chính là cạnh tranh về thể chế. Quốc gia nào có thể chế tốt hơn, người đó huy động nguồn lực nhanh hơn, phong phú hơn, sử dụng hiệu quả hơn và đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn.
Thể chế là linh hồn của một quốc gia hiện đại, quyết định tốc độ phát triển, chất lượng tăng trưởng và độ bền vững của mọi thành tựu. Một quốc gia có thể không giàu tài nguyên, nhưng nếu có thể chế minh bạch, liêm chính và hiệu quả, quốc gia đó vẫn có thể vươn lên hùng cường. Ngược lại, dù dồi dào nguồn lực, nhưng nếu thể chế trì trệ, kém thích ứng, thì mọi nỗ lực cũng sẽ bị lãng phí.
Chính vì vậy, thể chế chính là "hạ tầng mềm" có thể quyết định hiệu quả của mọi "hạ tầng cứng"; là "hệ điều hành" của quốc gia, định hình năng suất, tốc độ và chất lượng phát triển.
Tham luận tại buổi tọa đàm góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIV do Báo Tiền Phong tổ chức mới đây , ông Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cũng cho rằng, để "con thuyền" kinh tế Việt Nam có thể tiếp tục vươn ra biển lớn, đi nhanh và đi xa hơn, các cơ quan quản lý nhà nước cần nhìn nhận lại hệ thống thể chế, pháp luật và cơ chế điều hành.
Hiện nay, vẫn tồn tại những “sợi dây thừng”, là các ràng buộc về thể chế, quy định, quy trình, tuy có tác dụng giữ cho hệ thống ổn định, nhưng lại đang vô tình kìm hãm động lực phát triển. Nếu không tháo gỡ những sợi dây này, con thuyền sẽ khó tăng tốc, thậm chí có thể “kẹt” ngay trong vùng an toàn của chính mình.
“Giai đoạn này chúng ta cần cởi trói các sợi dây thừng ra khỏi con thuyền… Và điều quan trọng hơn nữa là làm sao để các sợi dây thừng thể chế đó điều khiển con thuyền giương buồm ra biển lớn, đi đúng hướng, đón gió để đi thật nhanh, đón lấy cơ hội. Thể chế cần được thiết kế như một “sợi dây neo”, vừa giúp giữ thăng bằng, vừa tạo đà để con thuyền bứt phá", ông Việt nhấn mạnh.
Tuy nhiên, để từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" trở thành thực sự là "đột phá của đột phá", thành lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, ông Dũng cho rằng, dự thảo văn kiện cần được làm sâu sắc hơn ở bốn phương diện: khái niệm "thể chế", các cấu phần hữu cơ của thể chế, đánh giá vị thế của Việt Nam và trên cơ sở đó, thiết kế một chiến lược cải cách thể chế toàn diện, đồng bộ và khả thi.
Theo đó, muốn cải cách thể chế hiệu quả, trước hết phải hiểu đúng, đánh giá đúng vai trò của nó. Trong khoa học chính trị – kinh tế hiện đại, thể chế không chỉ là luật pháp, mà là hệ thống các quy tắc chính thức và phi chính thức cùng với cơ chế thực thi, nhằm điều phối hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Hiểu một cách tổng quát, thể chế là tổng thể các quy tắc chính thức (quy phạm pháp luật), các chuẩn mực phi chính thức (giá trị, đạo đức, tập quán, niềm tin, nguyên tắc) và cơ chế thực thi những quy tắc và chuẩn mực đó, nhằm điều phối hành vi xã hội, duy trì trật tự và thúc đẩy phát triển.
Thể chế là hệ điều hành của quốc gia, nơi luật pháp, văn hóa và bộ máy hành chính có quan hệ hữu cơ để bảo đảm trật tự, công bằng và phát triển. Một thể chế "khỏe mạnh" không thể chỉ dựa vào những văn bản pháp luật, mà phải được nâng đỡ bởi đạo đức xã hội và thực thi công bằng.
Ba cấu phần này không tồn tại tách rời, mà tương tác hữu cơ, tạo thành linh hồn của thể chế. Pháp luật chỉ có ý nghĩa khi được chuẩn mực xã hội xác nhận; chuẩn mực xã hội chỉ vững khi được pháp luật và cơ chế thực thi củng cố; còn cơ chế thực thi chỉ công bằng khi cả luật và xã hội cùng thượng tôn giá trị liêm chính.
Nếu pháp luật đúng nhưng xã hội quen "lách luật", "nhờn luật" thì luật cũng khó phát huy tác dụng. Nếu bộ máy công quyền vận hành theo "chuẩn mực bôi trơn", thì pháp luật sẽ bị méo mó, còn người dân thì mất niềm tin.
Chính sự cộng hưởng hài hòa giữa ba cấu phần này mới là nền tảng để thể chế vận hành thông suốt, có năng lực tự học hỏi, tự điều chỉnh và tự đổi mới.
Để vươn lên, ba mục tiêu chiến lược về cải cách thể chế mà Việt Nam cần hướng tới là tăng tốc độ phản ứng thể chế – chính sách ban hành nhanh, thực thi hiệu quả, điều chỉnh kịp thời; giảm chi phí thể chế – bao gồm chi phí giao dịch, chi phí tuân thủ và chi phí "phi chính thức"; và tăng niềm tin thể chế – để người dân, doanh nghiệp và công chức cùng tin tưởng vào sự công bằng và minh bạch của bộ máy.
Theo ông Dũng, sau Đổi mới 1986, Việt Nam đã thay đổi diện mạo kinh tế. Giờ đây, cuộc Đổi mới lần thứ hai với trọng tâm về thể chế, chính là sứ mệnh lịch sử để nâng cấp toàn bộ hệ điều hành quốc gia, đưa đất nước thật sự bước vào kỷ nguyên vươn mình, hùng cường, thịnh vượng.











