Hà Tĩnh dẫn dòng vốn ưu đãi vào 5 trụ cột tăng trưởng bền vững

Hà Tĩnh đang triển khai ưu tiên tín dụng vào 5 lĩnh vực then chốt gồm xuất khẩu, nông nghiệp – nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngân hàng địa phương mở rộng cấp tín dụng, giảm lãi suất, tăng kết nối với doanh nghiệp, qua đó nâng sức hấp thụ vốn và hỗ trợ phục hồi sản xuất – kinh doanh.

Tính đến đầu tháng 9, tổng dư nợ của ngành Ngân hàng Hà Tĩnh vượt 120.380 tỷ đồng; dư nợ nông nghiệp – nông thôn đạt 51.057 tỷ đồng và dư nợ khối doanh nghiệp nhỏ và vừa trên 13.100 tỷ đồng, phản ánh hướng đi bám sát chủ trương và nhu cầu thực tiễn.

Năm lĩnh vực ưu tiên và triển khai thực tế

Chính phủ định hướng điều tiết dòng vốn vào 5 lĩnh vực nêu trên; Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng cơ cấu lại danh mục cho vay, ưu tiên các hoạt động sản xuất – kinh doanh thiết yếu, đóng góp vào ổn định vĩ mô và an sinh xã hội. Tại Hà Tĩnh, hệ thống ngân hàng đã cụ thể hóa bằng các giải pháp mở rộng tín dụng, giảm lãi suất, đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp nhằm tạo động lực tăng trưởng mới cho địa phương.

Trong cơ cấu ưu tiên, nông nghiệp – nông thôn giữ vai trò trọng tâm. Nguồn vốn tín dụng được định hướng cho xây dựng chuỗi liên kết, phát triển mô hình quy mô lớn và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân cải thiện năng suất và giá trị gia tăng của nông sản. Cách thức này đồng thời góp phần đổi mới diện mạo nông thôn theo hướng hiện đại, hiệu quả.

Việc ưu tiên 5 lĩnh vực tạo cơ sở để địa phương vận hành chính sách tín dụng có trọng tâm

Việc ưu tiên 5 lĩnh vực tạo cơ sở để địa phương vận hành chính sách tín dụng có trọng tâm

Thực tế cho thấy các chi nhánh ngân hàng thương mại đã gia tăng tỷ trọng cho vay khu vực nông nghiệp – nông thôn, đi kèm lãi suất ưu đãi. Đại diện Agribank Cẩm Xuyên cho biết dư nợ của chi nhánh đạt khoảng 4.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 95% dành cho nông nghiệp – nông thôn; lãi suất một số gói vay từ 4,5%/năm, tạo điều kiện để khách hàng tiếp cận vốn phục vụ sản xuất và chương trình xây dựng nông thôn mới.

Ở lĩnh vực xuất khẩu, tín dụng ưu đãi được sử dụng để mở rộng năng lực sản xuất, tự động hóa và hoàn thiện hạ tầng, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường mục tiêu. Trường hợp Công ty CP Sao Mai tại Cụm công nghiệp Bắc Cẩm Xuyên là ví dụ cụ thể: doanh nghiệp chuyên xuất khẩu bao bì sang Đông Nam Á, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ; được ngân hàng cho vay đầu tư hạ tầng và dây chuyền tự động hóa, qua đó nâng doanh thu và tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương.

Với nhóm công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ, tín dụng ưu đãi tập trung hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư thiết bị hiện đại, chuẩn hóa quy trình đáp ứng yêu cầu của các tổng thầu lớn. Doanh nghiệp Viết Hải (phường Sông Trí) cho biết đã đầu tư dây chuyền từ các nước tiên tiến để sản xuất bê tông thương phẩm và cọc bê tông ly tâm dự ứng lực; nhờ các khoản vay ưu đãi phục vụ đầu tư hạ tầng và vốn lưu động, sản phẩm được cung ứng cho các dự án trong và ngoài nước, giúp doanh thu duy trì ở mức hàng trăm tỷ đồng mỗi năm.

Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) là đối tượng thụ hưởng quan trọng của chương trình ưu tiên. Toàn tỉnh có khoảng 13.000 doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc, phần lớn là SME. Nhóm này được ngân hàng đồng hành về vốn để mở rộng quy mô, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng. Cùng với đó, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như thép, phôi thép, dệt may, sợi, thủy sản, dược phẩm… đã khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, trong đó có sự hậu thuẫn của vốn tín dụng.

Nhìn chung, việc ưu tiên 5 lĩnh vực tạo cơ sở để địa phương vận hành chính sách tín dụng có trọng tâm, hướng nguồn lực vào những ngành tăng trưởng nền tảng, có khả năng lan tỏa. Tại nông nghiệp – nông thôn, dư nợ tăng đều, hỗ trợ chuyển dịch mô hình sản xuất theo hướng chuẩn hóa và liên kết chuỗi. Ở xuất khẩu, vốn vay góp phần hiện đại hóa dây chuyền, mở rộng thị trường và tăng năng lực đáp ứng đơn hàng. Với công nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao, tín dụng ưu đãi giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn đầu tư ban đầu nhiều rủi ro để hình thành năng lực sản xuất mới. Ở khối SME, nguồn vốn rẻ giúp cải thiện dòng tiền, giảm chi phí vốn và nâng khả năng tham gia các đơn hàng dài hạn. Những diễn biến này phù hợp với định hướng ưu tiên của Trung ương và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Ngân hàng Nhà nước.

Kết quả tín dụng và yêu cầu nâng cao khả năng tiếp cận

Các số liệu tổng hợp cho thấy dư nợ vào nhóm lĩnh vực ưu tiên tăng theo thời gian. Đến đầu tháng 9, tổng dư nợ của ngành Ngân hàng Hà Tĩnh đạt trên 120.380 tỷ đồng, tăng hơn 10,5% so với đầu năm. Cơ cấu dư nợ phản ánh mức độ tập trung vào các lĩnh vực thiết yếu: nông nghiệp – nông thôn chiếm 51.057 tỷ đồng (tăng 7,9% so với đầu năm); khối doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt trên 13.100 tỷ đồng (tăng 24% so với đầu năm). Những con số này cho thấy năng lực tài chính và khả năng hấp thụ vốn của các cơ sở sản xuất – kinh doanh trong nhóm ưu tiên đang được củng cố.

Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn tồn tại một số trường hợp chưa tiếp cận được vốn tín dụng dù thuộc lĩnh vực ưu tiên. Nguyên nhân chính gồm hạn chế về tiềm lực tài chính, hồ sơ – chứng từ kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu và thiếu dự án, phương án kinh doanh khả thi. Để cải thiện tình hình, doanh nghiệp cần xây dựng hồ sơ tài chính minh bạch, bổ sung dữ liệu chứng minh khả năng sinh lời, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật liên quan để đáp ứng tiêu chí thẩm định.

Về phía ngân hàng, định hướng chung là tiếp tục dẫn vốn cho nền kinh tế và duy trì chính sách hỗ trợ khu vực ưu tiên. Các giải pháp chính bao gồm tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay; tăng khả năng tiếp cận vốn cho 5 lĩnh vực; hỗ trợ các đơn vị bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh; đẩy mạnh kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ vướng mắc phát sinh trong quá trình tiếp cận vốn.

Trong nhóm nông nghiệp – nông thôn, giải pháp trọng tâm là gắn tín dụng với chuỗi liên kết và tiêu chuẩn hóa sản xuất. Việc cấp vốn theo hợp đồng tiêu thụ, tiêu chuẩn chất lượng và lộ trình công nghệ giúp giảm rủi ro tín dụng, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã đạt các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc. Cách làm này phù hợp với định hướng tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương và đang được các tổ chức tín dụng triển khai nhằm nâng tỷ lệ vốn chảy vào mô hình sản xuất ổn định, có đầu ra rõ ràng.

Ở xuất khẩu, các khoản vay tập trung cho hạ tầng sản xuất, tự động hóa, kiểm soát chất lượng và đáp ứng yêu cầu đối tác. Điển hình như Sao Mai đã tận dụng nguồn vốn ngân hàng để hoàn thiện dây chuyền, đáp ứng tiêu chuẩn của nhiều thị trường lớn. Với công nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao, doanh nghiệp như Viết Hải sử dụng vốn vay để đầu tư thiết bị, nâng năng lực vận hành, nhờ đó mở rộng cung ứng cho các tổng thầu trong – ngoài nước. Các ví dụ này cho thấy ưu đãi tín dụng đang được chuyển hóa thành năng lực sản xuất cụ thể, có địa chỉ và có hợp đồng đầu ra.

Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp tục là đối tượng cần sự đồng hành về vốn và tư vấn tài chính. Số lượng doanh nghiệp đông, quy mô vừa và nhỏ, nhu cầu vốn linh hoạt theo chu kỳ kinh doanh dẫn tới yêu cầu thiết kế sản phẩm tín dụng phù hợp hơn với dòng tiền thực tế. Thông tin cho thấy ngân hàng trên địa bàn đã tăng cho vay đối với nhóm này; mặt khác, bản thân doanh nghiệp cần hoàn thiện quản trị và hồ sơ để giảm chi phí vốn.

Với các kết quả hiện có, ưu đãi tín dụng tại Hà Tĩnh đang đi theo hướng tập trung và có kiểm soát. Nguồn vốn ưu tiên được rót vào các mắt xích quan trọng của nền kinh tế địa phương; doanh nghiệp tận dụng để nâng cấp công nghệ, chuẩn hóa quy trình và mở rộng thị trường; khu vực nông nghiệp – nông thôn chuyển dịch rõ hơn sang mô hình liên kết và sản xuất theo tiêu chuẩn. Sự phối hợp giữa ngân hàng và doanh nghiệp, cùng khung chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, giúp duy trì nhịp tăng dư nợ hợp lý và củng cố khả năng hấp thụ vốn của các lĩnh vực ưu tiên.

Đức Thuận

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/ha-tinh-dan-dong-von-uu-dai-vao-5-tru-cot-tang-truong-ben-vung-170644.html