Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 1): Người con ưu tú của đất Hồng Lam
Nguyễn Du – Người con ưu tú của đất Hồng Lam, Danh nhân văn hóa thế giới, sẽ mãi là niềm tự hào, biểu tượng rực rỡ của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là dòng chảy bất tận được bồi đắp bởi lớp lớp phù sa văn hóa. Trong đó, Đại thi hào Nguyễn Du sừng sững như một ngọn hải đăng, tỏa rạng ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn xuyên suốt nhiều thế kỷ. Là Danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh, nhưng trước hết và trên hết, Nguyễn Du là người con ưu tú, là kết tinh diệu kỳ của “địa linh nhân kiệt” đất Hồng Lam (Hà Tĩnh). Cuộc đời và tác phẩm của ông không chỉ là niềm tự hào của dòng họ, của quê hương Tiên Điền, mà đã trở thành di sản vô giá của cả nhân loại.

Khu di tích Nguyễn Du tại Hà Tĩnh
Từ cội nguồn Hồng Lam – nơi hun đúc một thiên tài
Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Tuy sinh ra tại kinh thành Thăng Long trong một gia đình “trâm anh thế phiệt”, nhưng quê cha đất tổ của ông lại nằm ở dải đất miền Trung nắng gió: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Tiên Điền). Đây là vùng đất được bao bọc bởi dãy núi Hồng Lĩnh hùng vĩ và dòng sông Lam thơ mộng, tạo nên thế núi hình sông “Hồng Lĩnh – Lam Giang” huyền thoại.
Không thể hiểu hết hồn thơ Nguyễn Du nếu tách rời ông khỏi mảnh đất Hồng Lam. Chính truyền thống hiếu học, văn hóa, khoa bảng của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, hòa quyện với sự trầm mặc, kiên trung và ân tình của con người xứ Nghệ đã tạo nên cốt cách của Đại thi hào. Cha ông là Tể tướng Nguyễn Nghiễm – nhà chính trị, nhà văn hóa lớn; anh trai là Tham tụng Nguyễn Khản – người nổi tiếng tài hoa. Nguyễn Du thừa hưởng dòng máu quý tộc và trí tuệ uyên bác ấy, nhưng chính mảnh đất Nghi Xuân với những điệu ví dặm, những câu hò đò đưa trên sông Lam và cảnh đời lam lũ của người dân quê nghèo mới là “bầu sữa” nuôi dưỡng tâm hồn nhạy cảm của ông.
Dù phần lớn tuổi thơ sống ở Thăng Long phồn hoa, nhưng những năm tháng trưởng thành, đặc biệt là giai đoạn “thập tải phong trần” và thời gian quy ẩn tại quê nhà Hà Tĩnh, chính là lúc Nguyễn Du thấm thía sâu sắc nhất hồn cốt quê hương. Núi Hồng, sông Lam không chỉ là cảnh vật, mà còn là chứng nhân cho những nỗi niềm thời cuộc, ngấm vào từng câu thơ của Tố Như.
… đến một trái tim nhân đạo lớn
Nguyễn Du sống trong giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Đó là thời kỳ “một cuộc bể dâu” với sự sụp đổ của chế độ Lê – Trịnh, sự trỗi dậy của nhà Tây Sơn và sự thiết lập vương triều Nguyễn. Chính hoàn cảnh lịch sử bão táp ấy đã xô đẩy chàng công tử dòng dõi quý tộc vào cuộc đời trôi nổi, lầm than.
Ông từng trải qua cảnh “mười năm gió bụi”, nếm trải đủ mùi tân khổ – từ cuộc sống vinh hoa phú quý rơi xuống cảnh nghèo túng, bệnh tật, loạn lạc. Chính những trải nghiệm đau thương ấy đã giúp Nguyễn Du rũ bỏ cái nhìn hạn hẹp của tầng lớp quý tộc để đến gần hơn với nhân dân lao động. Ông nhìn thấy nỗi đau của chúng sinh, của những kiếp người bé nhỏ bị vùi dập trong xã hội phong kiến.
Từ đó, một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và vĩ đại đã hình thành trong ông. Nguyễn Du không chỉ thương mình: “Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân”, mà còn thương cho tất cả những kiếp người bất hạnh, đặc biệt là phụ nữ: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Ông khóc cho nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, khóc cho người ca nữ đất Long Thành, và làm lễ tế cho cả thập loại chúng sinh cô hồn không nơi nương tựa. Trái tim Nguyễn Du hòa chung nhịp với nỗi đau thời đại, biến ông trở thành “người có con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Đặc biệt, kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) với 3.254 câu lục bát không chỉ là đỉnh cao của văn học chữ Nôm mà còn là tượng đài ngôn ngữ dân tộc. Tác phẩm đã vượt qua một câu chuyện bi kịch để trở thành “tự điển tâm hồn” của người Việt:
“Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Với Truyện Kiều, Nguyễn Du được UNESCO công nhận là Danh nhân Văn hóa Thế giới (1965), đưa văn học Việt Nam bước ra thế giới, khẳng định tài năng và giá trị nhân đạo phổ quát của dân tộc.
Năm 2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại hội đồng UNESCO, Nguyễn Du một lần nữa được vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Đây là sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp to lớn của ông cho nền văn hóa nhân loại.
Người con đất Hồng Lam – từ những câu thơ viết bên dòng sông Lam, dưới chân núi Hồng – nay đã vang vọng khắp thế giới. Thế giới tôn vinh Nguyễn Du không chỉ vì ông là nhà thơ lớn, mà bởi tư tưởng nhân văn trong các tác phẩm của ông tương đồng với những giá trị chung nhân loại hướng tới: khát vọng hòa bình, lòng nhân ái, sự tôn trọng phẩm giá con người. Ông đứng trong hàng ngũ những vĩ nhân văn hóa như W. Shakespeare (Anh), A. Pushkin (Nga), Lý Bạch, Đỗ Phủ (Trung Quốc)… trở thành nhịp cầu nối văn hóa Việt Nam với bạn bè năm châu.
Có thể nói, sự vinh danh ấy một lần nữa khẳng định vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời là niềm tự hào vô hạn của người dân Hà Tĩnh. Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế không chỉ một kho tàng văn chương đồ sộ, mà còn là bài học lớn về tình yêu thương con người – nhắc nhở chúng ta sống nhân ái hơn, vị tha hơn trong dòng chảy bất tận của cuộc đời.
Còn tiếp...












