Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 2): Truyện Kiều - Tư tưởng nhân văn vượt thời đại

Giá trị của Truyện Kiều không chỉ nằm ở nghệ thuật ngôn từ mà còn ở tư tưởng nhân văn vượt thời đại. Đó là khát vọng tự do, công lý, là tiếng kêu xé lòng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người.

Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, nhắc đến Nguyễn Du, nhiều người thường nghĩ ngay đến Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) - kiệt tác văn học được xem là “thiên thu tuyệt diệu từ”. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử văn học Việt Nam: đưa ngôn ngữ bình dân, tiếng nói hàng ngày của dân tộc (chữ Nôm) lên đỉnh cao nghệ thuật bác học.

Cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều

Cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều

Đỉnh cao của tiếng Việt và thể thơ lục bát

Giá trị đầu tiên và lớn nhất đưa Truyện Kiều lên tầm “thiên thu tuyệt diệu từ” chính là sự thành công tột bậc về mặt ngôn ngữ. Ở thời kỳ mà chữ Hán vẫn giữ vị thế độc tôn trong văn chương bác học, Nguyễn Du đã thực hiện một cuộc bứt phá ngoạn mục khi sử dụng chữ Nôm (chữ viết ghi âm tiếng Việt) để sáng tạo nên một tác phẩm đồ sộ dài 3.254 câu thơ.

Nguyễn Du đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng tiếng Việt không hề nôm na, mà trái lại, vô cùng giàu đẹp, uyển chuyển và có khả năng diễn đạt những tư tưởng triết lý sâu xa hay những cung bậc cảm xúc tinh tế nhất. Ông đã “nhặt” những viên ngọc thô từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ để mài giũa thành những viên kim cương lấp lánh trong văn chương.

Dưới ngòi bút của Tố Như, thể thơ lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc – đã đạt đến trình độ mẫu mực. Tiếng Việt trong Truyện Kiều vừa có sự trang trọng, uyên bác của ngôn ngữ văn học với việc sử dụng đắt giá các từ Hán - Việt, vừa có sự mộc mạc, gần gũi của hồn quê.

Chẳng thế mà người ta vẫn thường nói, đọc Truyện Kiều, ta như thấy cả một “bảo tàng” tiếng Việt sống động. Có những câu thơ tả cảnh ngụ tình tài hoa đến mức trở thành chuẩn mực cho hội họa và nhiếp ảnh:

“Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”.

Lại có những câu diễn tả nội tâm nhân vật sắc sảo đến lạnh người:

“Bề ngoài thơn thớt nói cười / Mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Sức mạnh ngôn ngữ của Nguyễn Du lớn đến nỗi nhiều câu thơ trong Truyện Kiều đã tách khỏi tác phẩm để trở thành thành ngữ, tục ngữ trong đời sống hiện đại.

Một thư tịch Truyện Kiều cổ được lưu giữ tại Khu tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du

Một thư tịch Truyện Kiều cổ được lưu giữ tại Khu tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du

Cuốn “bách khoa thư” về văn hóa và tâm hồn Việt

Không chỉ là tượng đài về ngôn ngữ, Truyện Kiều còn là một pho “bách khoa thư” phản ánh sinh động đời sống văn hóa, phong tục và tâm linh của người Việt. Dù cốt truyện mượn từ Kim Vân Kiều truyện (Trung Quốc), nhưng qua lăng kính Nguyễn Du, mọi cảnh vật, con người và nếp sinh hoạt đều mang đậm hồn cốt Đại Việt.

Đọc Truyện Kiều, ta bắt gặp khung cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng của người Việt xưa:

“Thanh minh trong tiết tháng ba / Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”.

Ta thấy được những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng – từ đạo Phật, đạo Nho đến niềm tin vào luật nhân quả, nghiệp báo luân hồi – chi phối đời sống tinh thần người dân Á Đông.

Đặc biệt, tác phẩm đã tạo ra một không gian văn hóa độc đáo chưa từng có: Văn hóa Kiều. Hiếm có tác phẩm văn học nào trên thế giới đi vào đời sống dân gian sâu sắc như Truyện Kiều. Người Việt không chỉ đọc Kiều mà còn sống cùng Kiều qua các hình thức văn hóa như: lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều, vịnh Kiều, chèo Kiều, và đặc biệt là bói Kiều.

Trong những lúc “trà dư tửu hậu”, hay khi gặp trắc trở, bế tắc, người dân ở cả thành thị lẫn thôn quê lại tìm đến Truyện Kiều như một người bạn tri âm để giãi bày, tìm lời khuyên hay dự báo tương lai. Các nhân vật như Thúy Kiều, Từ Hải, Hoạn Thư, Sở Khanh… đã bước ra khỏi trang sách, trở thành những danh từ chung, điển hình tính cách trong xã hội Việt Nam. Đó chính là sức sống mãnh liệt mà văn hóa Kiều đã gieo vào lòng dân tộc.

Nói cách khác, trong kho tàng văn học Việt Nam ngàn năm, hiếm có tác phẩm nào đạt đến tầm vóc của một “cuốn sách thánh” – một di sản tinh thần ngấm sâu vào máu thịt của cả một dân tộc như Truyện Kiều. Kiệt tác của Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện về thân phận con người, mà là một tượng đài sừng sững, nơi kết tinh rực rỡ nhất vẻ đẹp của tiếng Việt và bản sắc văn hóa Việt Nam.

Quan trọng hơn, giá trị của Truyện Kiều không chỉ nằm ở nghệ thuật ngôn từ mà còn ở tư tưởng nhân văn vượt thời đại. Đó là khát vọng tự do và công lý qua hình tượng Từ Hải, là tiếng kêu xé lòng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Qua tác phẩm, Nguyễn Du gửi gắm thông điệp về tình yêu thương, sự bao dung và lòng trắc ẩn – những giá trị cốt lõi làm nên tính người.

Chính vì thế, Truyện Kiều đã vượt qua biên giới quốc gia, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng - trong đó tiếng Pháp có trên 15 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hán có hơn 10 bản, tiếng Nhật 5 bản… Năm 2020, ấn phẩm Truyện Kiều tam ngữ (Việt – Anh – Pháp) ra mắt và chinh phục hàng triệu độc giả trên toàn cầu.

Điều đó chứng tỏ, những giá trị nhân văn về khát vọng tự do, tình yêu và công lý trong tác phẩm là những giá trị mang tính toàn cầu, có khả năng chạm tới trái tim nhân loại. Năm 2013, UNESCO vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới - một lần nữa khẳng định vị thế của Truyện Kiều trên trường quốc tế.

Đánh giá về Truyện Kiều, trong Lời đầu sách Từ điển Truyện Kiều (1974), Giáo sư Đào Duy Anh viết: “…Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta…”

Khu lưu niệm Nguyễn Du

Khu lưu niệm Nguyễn Du

Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ cũng nhận định: “Truyện Kiều nổi lên so với những giá trị văn học đương thời và khiến sáng tác của Nguyễn Du gần với chúng ta ngày nay, về cả nội dung và hình thức nghệ thuật... Trước sau Truyện Kiều vẫn là di sản vĩ đại, là tuyệt đỉnh của nền văn học dân tộc quá khứ. Quan điểm lịch sử cũng như đòi hỏi muôn đời của giá trị văn học đều cho phép ta khẳng định điều đó”.

Học giả Phạm Quỳnh đã thốt lên một câu để đời: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.”

Câu nói ấy khẳng định vai trò sống còn của Truyện Kiều đối với vận mệnh văn hóa dân tộc. Giữ gìn Truyện Kiều chính là giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, là gìn giữ bản sắc văn hóa cha ông đã dày công vun đắp.

Tuy nhiên, trong dòng chảy hối hả của thời đại số, làm thế nào để thế hệ trẻ không chỉ biết đến Kiều qua sách giáo khoa mà còn cảm nhận, yêu mến và tự hào về vẻ đẹp ngôn ngữ của cha ông? Đó là câu hỏi lớn cần sự chung tay của cộng đồng - từ đổi mới giáo dục tới sáng tạo các sản phẩm văn hóa hiện đại (phim ảnh, âm nhạc, hội họa) lấy cảm hứng từ Kiều.

Trải qua bao biến thiên, Truyện Kiều vẫn như một “tượng đài ngôn ngữ và văn hóa” trường tồn. Đọc lại Truyện Kiều hôm nay không chỉ để thưởng thức văn chương mà còn là cuộc hành hương về nguồn cội, để thấy yêu hơn văn hóa nước nhà, thương hơn và tự hào hơn về hai tiếng: Việt Nam!

Còn tiếp...

Sông Hàn

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/ha-tinh-voi-hanh-trinh-tri-an-dai-thi-hao-nguyen-du-bai-2-truyen-kieu-tu-tuong-nhan-van-vuot-thoi-dai-a31109.html