Hai vị trạng nguyên hẩm hiu trong sử Việt

Lý Đạo Tái và Nghiêm Viên là hai người có số phận hẩm hiu bậc nhất trong lịch sử khoa bảng nước ta.

Tranh minh họa trạng nguyên nước Việt. Ảnh: INT.

Tranh minh họa trạng nguyên nước Việt. Ảnh: INT.

Lý Đạo Tái phải cắt tóc đi tu sau khi đỗ trạng còn Nghiêm Viên bị chính người vợ của mình đầu độc chết ngay khi chưa kịp làm quan, cống hiến cho đời.

Phận đời đen bạc

Lý Đạo Tái (1254 - 1334) vốn người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay). Theo sách “Tổ gia thực lục”, ngay từ khi còn nhỏ, Lý Đạo Tái đã là thần đồng, trí thông minh hơn người, nghe một hiểu mười, đọc đâu nhớ đấy.

Nhà nghèo không có lễ vật để bái sư nhập môn, cậu bé phải đứng ngoài lớp học nghe lỏm, nhìn lén, lấy cây làm bút, lấy sân làm bảng.

Học rất giỏi nhưng vì gia cảnh quá nghèo nên bị dân làng hắt hủi, bà con họ hàng ai cũng làm ngơ, Lý Đạo Tái phải bỏ quê nhà xa xứ để tìm chỗ ăn học. Khi lớn lên, ông đi hỏi vợ nhiều nơi nhưng đều bị từ chối vì dung mạo quá xấu xí lại nghèo xơ, nghèo xác.

Cuộc đời ông chỉ thay đổi khi thi đỗ Trạng nguyên vào năm 28 tuổi dưới triều vua Trần Nhân Tông. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm ở viện Nội Hàn của triều đình. Từ đây, quan lộ rộng mở với vị Trạng nguyên nghèo.

Nhờ học vấn tài giỏi, trong những lần tiếp sứ phương Bắc, Lý Đạo Tái nổi tiếng về văn thơ khiến sứ thần kính nể. Thấy ông là người có đức, có tài, vua và triều đình rất yêu mến. Vua Trần có ý gả công chúa Liễu Sinh nhưng ông từ chối.

Điều nực cười là, sau khi ông đỗ đạt, chức tước cao, có rất nhiều người tự nhiên tìm đến nhận ông làm họ hàng thân thích; nhà giàu quyền quý tranh nhau cầu cạnh kết thân, có ý gả con gái cho. Chán nản trước cảnh tình đời tráo trở, đen bạc, Lý Đạo Tái lao đầu vào sách vở, giam mình ở Viện Hàn lâm. Ông còn làm câu thơ cảm thán: “Hàn vi thì chẳng ai nhìn/Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em”.

Sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba (1288), vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Trần Anh Tông để xuất gia đi tu, sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, lấy Phật hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng.

Trong một lần hộ giá vua đến chùa Yên Tử, Trạng nguyên Lý Đạo Tái đã gặp vị tổ thứ hai là Pháp Loa Tôn giả. Chính sự uyên thâm và đức độ của vị tổ này đã khiến Lý Đạo Tái vô cùng khâm phục. Từ đó, ông quyết từ bỏ phú quý đời thường để quy y cửa Phật.

Đến năm 1305, Trạng nguyên Lý Đạo Tái cùng nối gót vua Trần Nhân Tông chính thức xuất gia đi tu tại chùa Yên Tử với pháp danh Huyền Quang.

Tại đây, Huyền Quang được vua Trần Nhân Tông trực tiếp thỉnh giảng. Sau đó, ông theo vua Trần Nhân Tông biên soạn sách kinh Phật. Sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thiền sư Huyền Quang về làm trụ trì ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử.

 Tranh minh họa Trạng nguyên Lý Đạo Tái - thiền sư Huyền Quang. Ảnh: ITN.

Tranh minh họa Trạng nguyên Lý Đạo Tái - thiền sư Huyền Quang. Ảnh: ITN.

Chết vì đòn ghen của vợ

Theo sách “Chuyện hay trong sử Việt”, Trạng Hổ Nghiêm Viên (Nghiêm Hoãn) quê ở huyện Quế Võ (Bắc Ninh ngày nay). Ông đỗ trạng tại khoa thi Bính Thìn (1496) đời Lê Thánh Tông.

Tương truyền, trước ngày diễn ra khoa thi Đình, vua Lê Thánh Tông nằm mộng thấy một con hổ ăn đầu người. Sau khi có kết quả thi, vua cho gọi những người đỗ vào thề trước điện.

Khi thấy tân khoa dáng người cao lớn vạm vỡ, tướng mạo dữ tợn, râu tóc, mặt mũi giống hổ nên Lê Thánh Tông truyền đến hỏi thì người đó xưng tên là Nghiêm Viên. Vua hỏi năm sinh thì Nghiêm Viên trả lời mình sinh năm Dần.

Chợt nhớ tới giấc mơ đêm trước, cho rằng đó là điềm trời báo trước, vua Lê Thánh Tông đã truyền đổi tên Nghiêm Viên thành Nghiêm Hoãn để tránh điềm gở trong giấc mơ và gả công chúa cho.

Ngoài ra, cũng vì cho rằng ông sinh vào năm Dần tuổi cầm tinh con hổ nên khi đỗ trạng, dân gian mới gọi ông là Trạng Hổ.

Vừa đoạt học vị Trạng nguyên cao quý, nay lại được lấy công chúa, trở thành phò mã của hoàng gia, tưởng chừng thiên hạ không mấy người có được sự may mắn ấy, không ngờ đó lại chính là mầm họa của Nghiêm Viên.

Số là, trước khi đỗ trạng và được gả công chúa, Nghiêm Viên đã có một người vợ ở quê, bà này có tính ghen ghê gớm. Nay nghe tin chồng đỗ trạng, bà vừa mừng nhưng lại “sôi máu” khi biết ông còn được vua kén làm phò mã, lấy được nàng công chúa trẻ trung, xinh đẹp.

Tức giận vì chồng mình có thêm vợ mới, nhưng chẳng dám làm gì động đến con vua, “cả giận mất khôn” đâm nghĩ quẩn, bà vợ cả đã bỏ thuốc độc vào thức ăn trong bữa tiệc mừng của chồng.

Thế là Trạng nguyên Nghiêm Viên trúng độc chết, chưa kịp làm quan để đem tài năng của mình ra giúp dân, giúp nước còn nàng công chúa bất hạnh kia chưa kịp hưởng hạnh phúc gia đình đã trở thành góa bụa.

Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” do Triều Nguyễn biên soạn khi viết về khoa thi năm Bính Thìn (1496) cũng có lời chú rằng: “Nghiêm Viên, người làng Bồng Lai, huyện Quế Dương, sau khi đỗ, lấy công chúa, đến lúc về nhà, bị vợ đánh thuốc độc chết”.

Câu chuyện buồn đó đã khiến Nghiêm Viên trở thành Trạng nguyên duy nhất trong lịch sử bị đầu độc, quốc gia mất đi một nhân tài kiệt liệt không được thỏa chí bình sinh của mình và nàng công chúa kia có lẽ cũng là nàng công chúa có cuộc hôn nhân ngắn ngủi bất hạnh nhất trong lịch sử.

Lịch sử khoa bảng nước Việt thời phong kiến bắt đầu từ năm 1075, khi nhà Lý cho mở kỳ thi “Minh kinh bác học và Nho học tam trường” để tuyển chọn người tài. Trước khi kết thúc vào năm 1919, đời vua Khải Định, có 47 người từng đỗ trạng nguyên - danh hiệu cao nhất trong các kỳ thi nho học thời phong kiến.

Nguyễn Thanh Điệp

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/hai-vi-trang-nguyen-ham-hiu-trong-su-viet-post731226.html