Hai ý kiến, hai góc nhìn của người trong cuộc
Đã qua 14 cơn bão rồi lũ, lụt, trong đó miền Trung bị rất nặng, và giờ đang bắt tay vực nhau dậy từ đổ nát. Các gia đình tự lo có, cộng đồng chung tay có, và nhà nước xuất rất nhiều tiền và công ra cũng có. Rồi sẽ có những căn nhà mới, những ngôi nhà được sửa chữa, những tài sản được gầy dựng lại...
Và cũng có thể có cái "nhìn lại" 2 đợt bão lũ vừa rồi ở miền Trung. Tôi làm một cuộc trò chuyện bỏ túi với một người bạn, đồng thời cũng là người lăn lộn suốt những ngày ấy trong bão lũ, có chút trọng trách trong những ngày vừa qua.
Tôi: Tóm lại, thế cái chủ trương 4 tại chỗ nó như thế nào?
Bạn: Chủ trương là rất đúng, nhưng áp vào thực tế thì nó... chưa khớp lắm, ấy là: 1. Không có kế hoạch sơ tán trước, chỉ có "chạy" khi nước đã vào nhà. Người dân không được cảnh báo đúng giờ. Không có hướng dẫn rõ ràng: khi nào phải sơ tán, sơ tán đi đâu, bằng đường nào, ai phụ trách khu nào. Tất cả đều chờ… xem nước đã dâng chưa. Đến khi dâng rồi thì mới chạy. Chạy trong mưa, chạy trong nước, chạy trong sợ hãi. Như kiểu mất phương hướng.
2. Không có phương tiện chuyên nghiệp đặt đúng chỗ. Miền Trung năm nào cũng ngập, nhưng: Thiếu trực thăng cứu hộ. Thiếu xuồng chuyên dụng. Thiếu đội cứu hộ tại chỗ. Thiếu đường tránh lũ, và thiếu bản đồ ngập. Sau đây chúng ta cần có hệ thống cứu hộ chuyên nghiệp giống Nhật Bản, Philippines hay Bangladesh. Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất, nhưng tử vong do bão lũ giảm 90% chỉ vì tổ chức tốt.
3. Không có bản đồ rủi ro — nên không biết nơi nào ngập nặng nhất. Muốn chống ngập phải có bản đồ: khu nào ngập 30 cm, khu nào ngập 1m, khu nào ngập 3m, khu nào cần sơ tán trước... Vì không có bản đồ, nên cứ nhìn trời để đoán.
4. Ảnh hưởng của thủy điện. Sông Ba có 16 thủy điện. Và rõ ràng quy trình vận hành liên hồ chứa có vấn đề, để sông suối tự chảy về so với việc anh tích nước rồi anh đổ xuống như thác nước, nhấn chìm mọi thứ nó rất khác nhau.

Đường bị chia cắt, bùn đất nhão, nhưng từng đoàn người vẫn kiên trì gùi gạo, mì tôm đến vùng bị cô lập.
Bạn bảo sẽ đưa ý kiến này vào cuộc họp gần nhất về bão lũ. Tôi nhắc, và không nên tìm cách chống, mà hãy tìm cách tránh và sống chung, nương vào tự nhiên mà sống, chỗ nào nguy hiểm thì tránh xa ra chứ không lăn vào đấy mà làm nhà. Và điều quan trọng nữa, phục hồi lại rừng tự nhiên dù biết là thời gian sẽ rất lâu. Nhớ là rừng tự nhiên chứ không phải rừng kinh tế, rừng cây công nghiệp, như chúng ta đã từng "chuyển 50 ngàn héc ta rừng nghèo" để trồng cao su. Gọi là rừng nghèo nhưng với đời sống, nó rất giàu, nó chính là nơi bảo vệ trái đất, là cái thùng tô nô khổng lồ giữ nước và điều tiết khí hậu.
Tôi cũng đồng tình với ý kiến của một cựu chiến binh và là luật sư, anh Trần Khánh Vân, người đang sống ở thành phố Đà Nẵng, vừa rồi cũng hứng bão và lũ, khi anh cho rằng, lũ lụt miền Trung xưa nay thường được cho là do mưa dồn dập, bão liên tiếp, lũ thượng nguồn đổ về nhanh, thủy điện xả lũ. Tuy nhiên, có một nguyên nhân từ sai lầm và lòng tham của con người, âm thầm và ít được nhắc tới mà rất khó để khắc phục, đang góp phần làm cho những trận lũ ngày càng dữ dội: sự thu hẹp cửa sông và những công trình xây dựng cản trở dòng chảy tự nhiên. Với công cụ History Googlearth (lịch sử hình ảnh bề mặt trái đất) rất dễ để thấy điều này. Cửa sông Đà Rằng (Cửa Đà Diễn) của Phú Yên, hạ lưu sông Ba là một ví dụ điển hình.
Hai mươi năm trước, cửa sông rộng hơn, dòng chảy ra biển mạnh và thẳng. Thế nhưng theo thời gian, bãi bồi tự nhiên vốn là nơi nước chảy tràn qua khi có lũ lụt được kè lại đắp thêm làm khu dân cư, nhiều bờ kè bê tông tại các khu vực khác dựng thẳng đứng thay thế bãi triều tự nhiên. Cầu Đà Rằng cũ và mới, với hàng loạt trụ giữa, càng làm dòng chảy khi lũ về bị "xé vụn", giảm tốc, dồn lại. Khi nước từ Tây Nguyên đổ về trong vài giờ, miệng cửa sông thu hẹp ấy không đủ khả năng dẫn thoát góp phần làm một phần Phú Yên (cũ) chìm trong biển nước như vừa qua. Tiếc thay Đà Rằng hoàn toàn không phải trường hợp cá biệt.
Từ Khánh Hòa đến Đà Nẵng, đâu đâu cũng thấy dấu vết của một xu hướng giống nhau: đô thị hóa lấn sát bờ sông: xây kè cứng, lấp bãi bồi, dựng công trình ngay trong hành lang thoát lũ, chân cầu được thiết kế chỉ hướng đến chịu lực mà quên mất là đang cắm xuống sông. Những nơi vốn là vùng trũng tự nhiên bị biến thành khu dân cư; những bãi triều vốn giữ vai trò chứa nước và không gian dự bị cho dòng nước thoát nhanh hơn khi có lũ được đổ đất san phẳng; những cửa sông vốn mở rộng nay bị co lại bởi cát bồi và công trình. Sông bị bóp lại, bờ bị ép lại, không gian của dòng chảy bị con người tước đi, trong khi lượng nước tức thời nhiều hơn với hoạt động xả lũ; nước thì không thể chảy ngược qua Lào nên không thể không dâng lên nhấn chìm làng mạc. Miền Trung vốn có hệ thống sông ngắn, dốc, lũ về nhanh, việc cửa sông hẹp đi làm khả năng thoát lũ giảm đáng kể không theo số học vì còn bị cộng hưởng với bồi lấp kéo theo khi xâm lấn dòng chảy tạo "nút cổ chai", kè và chân cầu không được thiết kế khoa học làm phát sinh dòng xoáy lại đi theo mưa lớn, bão dồn dập, biến đổi khí hậu, thì hậu quả chỉ có thể nặng hơn theo từng năm.
Điều đáng nói là phần lớn những thay đổi ấy đến từ chính tầm nhìn ngắn hạn và lòng tham với lợi ích nhỏ nhoi trước mắt của con người: những công trình giao thông không tính toán đầy đủ thủy lực; những tuyến kè bảo vệ dự án nhưng lại làm tổn thương dòng chảy; những khu đô thị lấn cửa sông và ven biển đẹp đẽ được xây ngay nơi lẽ ra là đường cho nước thoát đi. Hàng trăm người thiệt mạng, hàng chục nghìn tỷ đồng bị cuốn trôi, hàng triệu gia đình mất mát tài sản và sinh kế chỉ trong một mùa lũ. Đặt những tổn thất ấy cạnh phần lợi ích kinh tế thu được từ việc lấn sông, lấn biển suốt mấy chục năm qua, ta thấy ngay sự chênh lệch quá lớn: cái được thì nhỏ nhoi, còn cái mất thì khủng khiếp.
Chưa kể, sinh mạng con người vốn là vô giá, không có bất kỳ dự án hay khoản thu nào có thể đánh đổi. Vì vậy, khi nhắc đến nguyên nhân lũ miền Trung, để góp phần hạn chế trong tương lai cần thấy rõ và chấp nhận lý do nhân tai song hành cùng thiên tai. Từ đó thêm giải pháp căn cơ không chỉ là đối phó khi nước đã lên, mà là nhìn lại toàn bộ hệ thống cửa sông, hành lang sông, bãi bồi,vùng trũng. Trả lại cho sông những khoảng không gian cần thiết để chứa, để thoát. Mọi công trình ở cửa sông miền Trung, từ cây cầu, bờ kè đến khu dân cư, đều phải được tính toán bằng mô hình thoát lũ nghiêm ngặt, với nguyên tắc chính là không làm thu hẹp mặt cắt thoát lũ. Kiên quyết không lấn sông, nâng bãi bồi để thành kính phân lô nữa. Bởi cuối cùng, không có con đê nào mạnh bằng một dòng sông được tôn trọng đúng cách. Và không có giải pháp nào bền vững nếu con người vẫn hăm hở tiếp tục xây, lấn, mà quên mất rằng mỗi mét đất chiếm của sông hôm nay sẽ được nước đòi lại gấp nhiều lần trong những mùa mưa sau. Loài người sẽ chứng kiến thêm nhiều "đỉnh lũ lịch sử" nữa.
2 ý kiến, 2 góc nhìn của 2 người trong cuộc, đều có ích để chúng ta tham khảo, mục đích là, sẽ không bao giờ lặp lại những thiệt hại kinh hoàng như vừa qua.












