Hành động thiết thực trong bảo vệ trẻ em

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em không chỉ là trách nhiệm của phụ huynh, gia đình mà đòi hỏi xã hội cùng chung tay.

Hành động thiết thực nhất trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em là tôn trọng các quyền: sống, được chăm sóc sức khỏe, được học tập và phát triển năng khiếu, được khai sinh và có quốc tịch... của trẻ em.

Quyền khai sinh và có quốc tịch

Đây là quyền thiêng liêng đối với trẻ em. Quyền này được Hiến pháp, pháp luật dân sự, trẻ em, quốc tịch, hộ tịch… bảo hộ. Tại Điều 13 Luật Trẻ em năm 2014 quy định: Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật.

Niềm vui đến trường của học sinh dân tộc Chơro ở xã Tà Lài, tỉnh Đồng Nai. Ảnh minh họa: Đoàn Phú

Niềm vui đến trường của học sinh dân tộc Chơro ở xã Tà Lài, tỉnh Đồng Nai. Ảnh minh họa: Đoàn Phú

Luật sư Nguyễn Thanh Tấn (Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai) cho biết: Luật Trẻ em năm 2016 quy định quyền khai sinh và có quốc tịch liên quan trực tiếp tới rất nhiều quyền khác như: quyền sống (Điều 12); quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 15); quyền về tài sản (Điều 20); quyền được sống chung với cha, mẹ (Điều 22)...

Luật sư Nguyễn Thanh Tấn phân tích: Tại Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh. Trẻ em sinh ra mà sống được từ 24 giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới 24 giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.

Đồng thời, tại Điều 15, Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em. Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.

Riêng về quốc tịch, tại Điều 15 và Điều 16 Luật Quốc tịch năm 2008, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2025 có quy định, trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con khi thực hiện thủ tục về khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo hướng dẫn của Chính phủ. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.

Quyền hưởng di sản

Theo Luật Trẻ em năm 2016, trẻ em là người dưới 16 tuổi. Ở độ tuổi này, các em còn phụ thuộc, chưa đủ điều kiện để lao động kiếm sống. Tuy vậy, các em vẫn có quyền về tài sản. Cụ thể, tại Điều 20 Luật Trẻ em năm 2014 quy định: Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật.

Vấn đề này theo luật sư Lý Khánh Hòa, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai: Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình (khoản 3 và khoản 5, Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Bên cạnh đó, con được hưởng di sản thừa kế từ cha mẹ không thuộc vào nội dung di chúc trong trường hợp con chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi, điểm a, khoản 1, Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được tòa án xác định. Quy định này rất nhân văn trong việc bảo vệ quyền trẻ em.

Luật sư BÙI VĂN GIÁP, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai

Điều kiện để trẻ em được hưởng di sản thừa kế từ cha mẹ theo di chúc hoặc theo pháp luật là: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết (Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Luật sư Lý Khánh Hòa lưu ý thêm: Người con, tức trẻ em hưởng di sản thừa kế từ cha mẹ không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ như: cha mẹ ly hôn, cha mẹ sống chung không có đăng ký kết hôn. Với trường hợp cha mẹ chết mà không có di chúc thì con đã thành thai mà sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế được phân chia theo pháp luật. Tức là người con này thuộc trường hợp những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đồng thời, con đã thành thai mà sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng cha mẹ trước khi chết lập di chúc loại bỏ tên con thì vẫn được hưởng di sản. Với trường hợp này người con được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đoàn Phú

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/xa-hoi/202510/hanh-dong-thiet-thuc-trong-bao-ve-tre-em-d066478/